Kai Havertz
Havertz trong màu áo đội tuyển Đức vào năm 2019 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Kai Lukas Havertz[1] | ||
Ngày sinh | 11 tháng 6, 1999 [2] | ||
Nơi sinh | Aachen, Đức | ||
Chiều cao | 1,93 m (6 ft 4 in)[3] | ||
Vị trí | |||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Arsenal | ||
Số áo | 29 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2003–2009 | Alemannia Mariadorf | ||
2009–2010 | Alemannia Aachen | ||
2010–2016 | Bayer Leverkusen | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2016–2020 | Bayer Leverkusen | 118 | (36) |
2020–2023 | Chelsea | 91 | (19) |
2023– | Arsenal | 37 | (13) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2014–2015 | U-19 Đức | 6 | (0) |
2015–2016 | U-19 Đức | 16 | (2) |
2017–2018 | U-19 Đức | 8 | (7) |
2018– | Đức | 51 | (18) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22:07, 19 tháng 5 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 22:22, 5 tháng 7 năm 2024 (UTC) |
Kai Lukas Havertz (sinh ngày 11 tháng 6 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo cho câu lạc bộ Premier League Arsenal và đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Kể từ khi ra mắt cho Bayer Leverkusen vào năm 2016, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra mắt câu lạc bộ tại Bundesliga và trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất của họ khi có bàn thắng đầu tiên vào năm 2017. Anh cũng là cầu thủ trẻ nhất đạt được cột mốc 50 và 100 lần ra sân ở giải đấu hàng đầu nước Đức.[4] Tại Chelsea, anh đã giành chức vô địch UEFA Champions League 2020–21, ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết gặp Manchester City.[5]
Sau khi khoác áo cho Đức ở nhiều cấp độ trẻ khác nhau, Havertz có trận ra mắt đội tuyển quốc gia vào tháng 9 năm 2018, trở thành cầu thủ đầu tiên sinh năm 1999 thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Anh đại diện cho Đức tại hai kỳ UEFA Euro (2020 và 2024) và FIFA World Cup 2022.
Đầu đời
[sửa | sửa mã nguồn]Havertz sinh ra ở Aachen, North Rhine-Westphalia[6] và lớn lên ở Mariadorf, quận Alsdorf.[7] Sau đó, gia đình anh chuyển về Aachen.[8] Cha anh là một cảnh sát và mẹ anh là một luật sư.[9]
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Bayer Leverkusen
[sửa | sửa mã nguồn]Havertz tới đội bóng Alemannia Mariadorf khi mới 4 tuổi, nơi ông nội của anh, Richard, là chủ tịch của câu lạc bộ này.[10] Năm 2009, anh gia nhập học viện Alemannia Aachen ở Bundesliga và chỉ học một năm trong trước khi tới Bayer Leverkusen ở tuổi 11.[11] Trong những năm sau, anh đã phải vượt qua những thử thách liên quan đến sự phát triển vượt bậc. Năm 2016, sau khi ghi được 18 bàn thắng cho U-17 Bayer Leverkusen, anh ấy đã được trao huy chương bạc giải Fritz Walter trước khi gia nhập đội một Bayer Leverkusen vào năm sau.[10][12][13]
Havertz có trận ra mắt Bayer Leverkusen ở Bundesliga vào ngày 15 tháng 10 năm 2016, vào sân thay cho Charles Aránguiz ở hiệp hai trong trận thua 1–2 trước Werder Bremen. Khi bước vào sân thi đấu, anh đã trở thành cầu thủ trẻ nhất ra mắt ở Bundesliga, ở tuổi 17, 126 ngày, mặc dù kỷ lục của Kai Havertz bị Florian Wirtz phá vỡ vào năm 2020, ở tuổi 17, 111 ngày.[14][15][16] Ngày 21 tháng 2 năm 2017, anh đã được trao suất đá chính đầu tiên trong trận gặp Atlético Madrid ở lượt đi vòng 16 đội Champions League khi đồng đội Hakan Çalhanoğlu đang thực thi án treo giò.[17][18] Tuy nhiên, Havertz vắng mắt trong trận lượt về vào tháng 3, vì bận làm kiểm tra ở trường học.[19] Anh đã có bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 2 tháng 4, ghi bàn gỡ hòa muộn trong trận hòa 3–3 trước VfL Wolfsburg.[20] Khi làm được điều đó, Havertz đã phá vỡ một kỷ lục khác của câu lạc bộ để trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi nhiều bàn cho Leverkusen, ở tuổi 17.[21] Với tổng cộng, anh có 28 lần ra sân trên mọi đấu trường và ghi được 4 bàn thắng, trong đó có một cú đúp vào lưới Hertha BSC vào ngày cuối cùng của mùa giải, khi Leverkusen kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 12.[22][23]
Ngày 14 tháng 4 năm 2018, Havertz trở thành cầu thủ trẻ nhất đạt cột mốc 50 trận tại Bundesliga ở tuổi 18, 307 ngày và phá vỡ kỷ lục mà Timo Werner đang nắm giữ trước đó.[24][25] Anh tiếp tục thi đấu cho đến hết mùa giải thứ hai của mình ở câu lạc bộ. Với tổng cộng, và ghi 3 bàn thắng sau 30 lần ra sân cho Leverkusen, họ đứng vị trí thứ năm ở Bundesliga.[26]
Havertz tiếp tục gây ấn tượng trong mùa giải tiếp theo, bất chấp Leverkusen ban đầu gặp khó khăn ở giải đấu, và vào thời điểm giữa mùa giải là cầu thủ duy nhất đá chính mọi trận đấu cho câu lạc bộ, ghi được sáu bàn thắng trong suốt thời gian đó.[27] Ngày 20 tháng 9 năm 2018, Havertz đã ghi bàn thắng đầu tiên trong số hai bàn tại đấu trường châu Âu, trong chiến thắng 3–2 trước Ludogorets Razgrad ở UEFA Europa League 2018–19.[28] Ngày 26 tháng 1 năm 2019, anh ghi bàn từ chấm phạt đền cho Leverkusen trong chiến thắng 3–0 trước Wolfsburg. Khi làm điều này, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất làm được điều này ở tuổi 19, 7 tháng và 16 ngày.[29] Tháng sau, anh trở thành cầu thủ trẻ thứ hai đạt cột mốc 75 trận tại Bundesliga, sau Julian Draxler, khi anh đá chính và ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trước Fortuna Düsseldorf.[30] Ngày 13 tháng 4, anh ghi bàn trong lần ra sân thứ 100 cho Leverkusen để giúp đội bóng giành chiến thắng 1–0 trước Stuttgart. Đây là thắng thứ 13 của Havertz trong mùa giải, cũng chứng kiến anh trở thành cầu thủ trẻ nhất kể từ cựu cầu thủ Stuttgart, Horst Köppel, người đã ghi 13 bàn thắng ở mùa giải 1967–68.[31] Ngày 5 tháng 5, anh ghi bàn thắng thứ 15 tại Bundesliga, trong chiến thắng 6–1 trước Eintracht Frankfurt; trận đấu này mà lần đầu chứng kiến bảy bàn thắng được ghi trong hiệp một của một trận đấu tại giải đấu.[32] Ngày cuối của mùa giải, anh trở thành cầu thủ trẻ ghi nhiều bàn nhất trong một mùa giải sau khi ghi bàn mở tỷ số cho Leverkusen trong chiến thắng 5–1 trước Hertha BSC và là bàn thắng thứ 17.[33] Anh được xếp thứ hai sau Marco Reus trong giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Đức, chỉ thua 37 phiếu bầu[34]
Ngày khai mạc mùa giải 2019–20, Havertz ghi bàn trong chiến thắng 3–2 của Leverkusen trước Paderborn và trở thành cầu thủ trẻ thứ hai mọi thời đại sau Köppel ghi được 25 bàn thắng tại Bundesliga.[35] Tháng 12, ở tuổi 20 tuổi, 6 tháng và 4 ngày, anh phá vỡ kỷ lục của Timo Werner để trở thành cầu thủ trẻ nhất đạt được cột mốc 100 trận tại Bundesliga khi anh đá chính cho Bayer Leverkusen trong trận thua 0–2 trước Köln.[36] Tại UEFA Europa League 2019–20, Havertz ghi bàn trong cả hai lượt trận đấu gặp Porto ở vòng 32, sau đó anh ghi bàn trong trận thua 1–2 trước Inter Milan ở vòng tứ kết.[37]
Chelsea
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải 2020–21
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 4 tháng 9 năm 2020, Havertz ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Chelsea tại Premier League.[38][39] Với bản hợp đồng này có giá trị ban đầu là 62 triệu bảng, có thể tăng lên tới 71 triệu bảng với các khoản bổ sung, khiến cầu thủ này trở thành bản hợp đồng đắt giá thứ hai của Chelsea sau Kepa Arrizabalaga.[40][41] Anh có trận ra mắt Chelsea vào ngày 14 tháng 9, trong trận mở màn Premier League gặp Brighton & Hove Albion, trận đấu này kết thúc với chiến thắng 3–1 trên sân khách.[42] Ngày 23 tháng 9, Havertz lập hat-trick đầu tiên trong sự nghiệp và bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong chiến thắng 6–0 trên sân nhà trước Barnsley ở vòng ba EFL Cup.[43] Anh có bàn thắng đầu tiên tại Premier League vào ngày 17 tháng 10, trong trận hòa 3–3 trên sân nhà trước Southampton.[44] Ngày 4 tháng 11 năm 2020, có thông tin tiết lộ rằng Havertz đã có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19.[45]
Ngày 29 tháng 5 năm 2021, Havertz ghi bàn thắng duy nhất trong trận Chung kết UEFA Champions League 2021. Đó là bàn thắng đầu tiên của anh tại UEFA Champions League khi Chelsea đánh bại đội bóng đồng hương Manchester City để giành chức vô địch giải đấu này lần thứ hai trong lịch sử câu lạc bộ.[46][47]
Mùa giải 2021–22
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 11 tháng 8 năm 2021, Havertz cùng đội bóng Chelsea giành chức vô địch Siêu cúp UEFA khi họ đánh bại Villarreal trên chấm phạt đền ở trận chung kết, mặc dù anh đá hỏng quả phạt đền.[48] Ngày 28 tháng 8, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải khi đội bóng cầm 1–1 trước Liverpool.[49]
Ngày 12 tháng 2 năm 2022, Havertz ghi bàn trên chấm phạt đền ở phút thứ 117 ở trận chung kết FIFA Club World Cup 2021, trận đấu này kết thúc với chiến thắng 2–1 trước Palmeiras.[50]
Mùa giải 2022–23
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 3 tháng 9 năm 2022, Havertz ghi bàn ấn định chiến thắng 2–1 trên sân nhà trước West Ham United và là bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2022–23.[51] Ngày 25 tháng 10, anh ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 2–1 trước Red Bull Salzburg, giúp Chelsea lọt vào vòng loại trực tiếp.[52]
Arsenal
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 28 tháng 6 năm 2023, Havertz đặt bút ký hợp đồng với câu lạc bộ Arsenal, với điều khoản trị giá 65 triệu bảng.[53][54] Anh ra mắt cho Arsenal vào ngày 13 tháng 7 trong trận hòa 1-1 trước mùa giải với 1. FC Nürnberg. Sáu ngày sau, Havertz ghi bàn thứ năm cho Arsenal trong chiến thắng 5–0 ở MLS All-Star Game 2023 trước đội MLS All-Star. Vào ngày 6 tháng 8, anh giành danh hiệu đầu tiên với câu lạc bộ khi giành chức vô địch FA Community Shield, sau khi Arsenal đánh bại Manchester City với tỷ số 4–1 trên chấm luân lưu.[55] Vào ngày 30 tháng 9, Havertz ghi bàn thắng đầu tiên cho Arsenal thông qua một quả phạt đền trong chiến thắng 4–0 trước Bournemouth.[56]
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Đội tuyển trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Havertz có trận ra mắt U16 Đức vào ngày 11 tháng 11 năm 2014, đá chính trong trận giao hữu gặp Cộng hòa Séc trước khi rời sân ở phút thứ 57. Trận đấu này kết thúc với chiến thắng 3–1 của họ.[57]
Havertz được triệu tập vào U-17 Đức tham dự Giải vô địch U17 châu Âu 2016.[58] Anh đã có 5 lần ra sân cho đội tuyển, chỉ ghi một bàn thắng trước khi họ bị Tây Ban Nha loại ở bán kết.[cần dẫn nguồn]
Sau 15 tháng vắng mặt tại các giải trẻ quốc tế, Havertz đã có trận ra mắt cho U19 Đức vào ngày 31 tháng 8 năm 2017 trong trận giao hữu gặp Thụy Sĩ, vào sân ở phút thứ 72 thay cho Palkó Dárdai. Tuy nhiên, trận đấu này kết thúc với hoà 0–0.[59] Ngày 4 tháng 10 năm 2017, trong lần ra sân thứ ba cho U-17 Đức, anh ghi bốn bàn trong chiến thắng 5–1 trước đối thủ Belarus ở vòng đầu tiên của vòng loại Giải vô địch U19 châu Âu.[60] Sau đó, anh được bổ nhiệm làm đội trưởng của U-17 Đức.[61]
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 29 tháng 8 năm 2018, Havertz lần đầu được huấn luyện viên Joachim Löw gọi lên đội tuyển quốc gia Đức. Anh được triệu tập vào đội tuyển ia Đức chuẩn bị cho trận đấu tại UEFA Nations League, gặp Pháp và trận giao hữu gặp Peru.[61][62] Havertz có trận ra mắt quốc tế vào ngày 9 tháng 9 năm 2018, vào sân thay cho Timo Werner ở phút 88 trong trận gặp Peru, trận đấu này kết thúc với chiến thắng 2–1 của Đức trên sân nhà.[63] Ngay khi ra mắt, anh trở thành cầu thủ đầu tiên sinh năm 1999 khoác áo cho đội tuyển quốc gia.[64]
Ngày 19 tháng 5 năm 2021, anh được gọi lên đội tuyển Đức tham dự UEFA Euro 2020.[65] Ngày 19 tháng 6 năm 2021, anh ghi bàn thắng thứ ba cho Đức ở phút thứ 51 trong chiến thắng 4–2 trước Bồ Đào Nha tại giải đấu này.[66] Anh đã ghi một bàn thắng trong trận hoà 2–2 trước Hungary ở trận cuối của vòng bảng, chứng kiến đội tuyển Đức lọt vòng loại trực tiếp.[67]
Tháng 11 năm 2022, Havertz có tên trong danh sách cuối cùng của đội tuyển Đức tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar.[68] Ngày 1 tháng 12, anh lập một cú đúp trong chiến thắng 4–2 trước Costa Rica; tuy nhiên, Đức vẫn bị loại ngay từ vòng bảng giải đấu với vị trí thứ 3.[69]
Phong cách chơi bóng
[sửa | sửa mã nguồn]Havertz được đánh giá là một tiền vệ thuận hai chân và có năng khiếu về kỹ thuật, thoải mái với bóng trên hai chân và lão luyện bằng đầu.[70] Trong những năm đầu tiên chơi bóng, anh được so sánh phong cách thi đấu giống với đồng hương Mesut Özil, với chính Havertz thừa nhận tiền vệ của Arsenal là một cầu thủ mà anh ngưỡng mộ.[71] Ở tuổi 19 và sau rất nhiều màn trình diễn ấn tượng tại Bundesliga, anh còn được ví với các cầu thủ khác như Michael Ballack, Toni Kroos và Arturo Vidal. Với phương tiện truyền thông Đức, họ mô tả anh như một sự pha trộn của rất nhiều danh thủ bóng đá khác nhau, ví như một Alleskönner - một cầu thủ có thể làm mọi thứ.[70] Điểm mạnh nữa của Havertz là khả năng chuyền bóng, biết cách ghi bàn, giỏi không chiến và rất nhanh.[72]
Danh thủ Rudi Völler nhận xét về Havertz là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử của Bayer Leverkusen.[73] Còn huyền thoại Lothar Matthäus nhận xét: "Cậu ấy chơi bóng đầy khát khao, chơi một cách thoải mái, cậu ấy cực nhanh, có thể ghi bàn, đóng góp vào lối chơi, hết mình vì đội bóng, và cậu ấy còn quá trẻ".[74]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến 19 tháng 5 năm 2024
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp Quốc gia[a] | Cúp Liên đoàn[b] | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Bayer Leverkusen | 2016–17[75] | Bundesliga | 24 | 4 | 1 | 0 | — | 3[c] | 0 | — | 28 | 4 | ||
2017–18[75] | 30 | 3 | 5 | 1 | — | — | — | 35 | 4 | |||||
2018–19[75] | 34 | 17 | 2 | 0 | — | 6[d] | 3 | — | 42 | 20 | ||||
2019–20[75] | 30 | 12 | 5 | 2 | — | 10[e] | 4 | — | 45 | 18 | ||||
Tổng cộng | 118 | 36 | 13 | 3 | — | 19 | 7 | — | 150 | 46 | ||||
Chelsea | 2020–21[76] | Premier League | 27 | 4 | 5 | 1 | 1 | 3 | 12[c] | 1 | — | 45 | 9 | |
2021–22[77] | 29 | 8 | 3 | 0 | 3 | 2 | 9[c] | 3 | 3[f] | 1 | 47 | 14 | ||
2022–23[78] | 35 | 7 | 1 | 0 | 1 | 0 | 10[c] | 2 | — | 47 | 9 | |||
Tổng cộng | 91 | 19 | 9 | 1 | 5 | 5 | 31 | 6 | 3 | 1 | 139 | 32 | ||
Arsenal | 2023–24[79] | Premier League | 37 | 13 | 1 | 0 | 2 | 0 | 10[c] | 1 | 1[g] | 0 | 51 | 14 |
Tổng cộng sự nghiệp | 246 | 68 | 23 | 4 | 7 | 5 | 60 | 14 | 4 | 1 | 340 | 92 |
- ^ Bao gồm Cúp bóng đá Đức và Cúp FA.
- ^ Bao gồm Cúp Liên đoàn bóng đá Anh.
- ^ a b c d e Ra sân tại UEFA Champions League.
- ^ Ra sân tại UEFA Europa League.
- ^ 5 lần ra sân tại UEFA Champions League, 5 lần ra sân và ghi 4 bàn thắng tại UEFA Europa League.
- ^ Ra sân tại UEFA Super Cup, ra sân hai lần và ghi một bàn tại FIFA Club World Cup
- ^ Ra sân tại FA Community Shield
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến 5 tháng 7 năm 2024[80]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Đức | 2018 | 2 | 0 |
2019 | 5 | 1 | |
2020 | 3 | 1 | |
2021 | 13 | 5 | |
2022 | 10 | 5 | |
2023 | 9 | 2 | |
2024 | 9 | 4 | |
Tổng cộng | 51 | 18 |
- Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Đức được để trước và in đậm, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Havertz.
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 9 tháng 10 năm 2019 | Westfalenstadion, Dortmund, Đức | Argentina | 2–0 | 2–2 | Giao hữu |
2 | 13 tháng 10 năm 2020 | RheinEnergieStadion, Cologne, Đức | Thụy Sĩ | 2–2 | 3–3 | UEFA Nations League 2020–21 |
3 | 25 tháng 3 năm 2021 | MSV-Arena, Duisburg, Đức | Iceland | 2–0 | 3–0 | Vòng loại FIFA World Cup 2022 |
4 | 19 tháng 6 năm 2021 | Allianz Arena, Munich, Đức | Bồ Đào Nha | 3–1 | 4–2 | UEFA Euro 2020 |
5 | 23 tháng 6 năm 2021 | Hungary | 1–1 | 2–2 | ||
6 | 11 tháng 10 năm 2021 | Toše Proeski Arena, Skopje, Bắc Macedonia | Bắc Macedonia | 1–0 | 4–0 | Vòng loại FIFA World Cup 2022 |
7 | 14 tháng 11 năm 2021 | Sân vận động Cộng hòa Vazgen Sargsyan, Yerevan, Armenia | Armenia | 1–0 | 4–1 | |
8 | 26 tháng 3 năm 2022 | Rhein-Neckar-Arena, Sinsheim, Đức | Iceland | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
9 | 26 tháng 9 năm 2022 | Sân vận động Wembley, London, Anh | Anh | 2–2 | 3–3 | UEFA Nations League 2022–23 |
10 | 3–2 | |||||
11 | 1 tháng 12 năm 2022 | Sân vận động Al Bayt, Doha, Qatar | Costa Rica | 2–2 | 4–2 | FIFA World Cup 2022 |
12 | 3–2 | |||||
13 | 12 tháng 6 năm 2023 | Weserstadion, Bremen, Đức | Ukraina | 2–3 | 3–3 | Giao hữu |
14 | 18 tháng 11 năm 2023 | Sân vận động Olympic, Berlin, Đức | Thổ Nhĩ Kỳ | 1–0 | 1–2 | |
15 | 23 tháng 3 năm 2024 | Parc Olympique Lyonnais, Lyon, Pháp | Pháp | 2–0 | 2–0 | |
16 | 7 tháng 6 năm 2024 | Borussia-Park, Mönchengladbach, Đức | Hy Lạp | 1–1 | 2–1 | |
17 | 14 tháng 6 năm 2024 | Allianz Arena, Munich, Đức | Scotland | 3–0 | 5–1 | UEFA Euro 2024 |
18 | 29 tháng 6 năm 2024 | Westfalenstadion, Dortmund, Đức | Đan Mạch | 1–0 | 2–0 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Bayer Leverkusen
Chelsea
Arsenal
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Các Huy chương
- Huy chương Fritz Walter: Huy chương bạc - 2016 (U17)[86]
- Huy chương Fritz Walter: Huy chương vàng - 2018 (U19)[87]
Khác
- Đội hình Bundesliga của năm: 2018–19[88]
- Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Bundesliga: tháng 4 năm 2019, tháng 5 năm 2019[89]
- Đội hình tiêu biểu UEFA Champions League dành cho cầu thủ đột phá: 2019[90]
- Đội hình đột phá UEFA Champions League: 2019
- Đội hình xuất sắc nhất mùa giải UEFA Europa League : 2019-20
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Squad List: FIFA Club World Cup UAE 2021: Chelsea FC” (PDF) (bằng tiếng Anh). FIFA. 9 tháng 2 năm 2022. tr. 1. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Kai Havertz: Overview” (bằng tiếng Anh). ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Kai Havertz: Overview” (bằng tiếng Anh). Premier League. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Youngest to play 100 Bundesliga games: Havertz in numbers”. Diario AS. Madrid. ngày 14 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “NxGn 2018: Top 50 cầu thủ trẻ xuất sắc nhất thế giới ở lứa tuổi U19”. Goal.com. 28 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Kai Havertz: Profile”. worldfootball.net. HEIM:SPIEL. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Ein Mariadorfer Junge erhält Fritz-Walter-Medaille des DFB”. alemannia-mariadorf.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Bayer Leverkusens jüngster Profi trägt sich ins Goldene Buch ein”. aachener-zeitung.de (bằng tiếng Đức). ngày 29 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
- ^ Kramer, Jörg (ngày 23 tháng 1 năm 2019). “Die Ruhe selbst”. Die Zeit (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
- ^ a b “Kai Havertz's journey: From Grandad's guidance to becoming Germany's next great star”. Bundesliga. 27 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2020.
- ^ Röber, Philip (4 tháng 2 năm 2017). “UEFA.com's weekly wonderkid: Kai Havertz”. UEFA. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Bravertz: Julian Brandt and Kai Havertz forming Bayer Leverkusen's German midfield core”. Bundesliga. 15 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2019.
- ^ McGuiness, Kev (25 tháng 1 năm 2017). “Bayer Leverkusen's overlooked youth prospects”. Vavel. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
- ^ Röber, Philip (ngày 4 tháng 2 năm 2017). “UEFA.com's weekly wonderkid: Kai Havertz”. UEFA. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Werder Bremen v Bayer Leverkusen”. Soccerway. Perform Group. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Florian Wirtz replaces Kai Havertz as Bayer Leverkusen's youngest ever player”. Bundesliga. ngày 18 tháng 5 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
- ^ Sargeant, Jack. “Bayer Leverkusen vs. Atlético Madrid lineups: Bayer hand teenager Havertz first Champions League start”. SBNation. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2017.
- ^ Molinaro, John (ngày 14 tháng 3 năm 2017). “Person of Interest: German wunderkind Kai Havertz one to watch”. Sports Net. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2017.
- ^ Wright, Chris (ngày 14 tháng 3 năm 2017). “Bayer Leverkusen starlet ruled out for school exam”. ESPN FC. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ Fahey, Ciaran (ngày 2 tháng 4 năm 2017). “Gomez hat trick but Wolfsburg held 3–3 at Leverkusen”. New Jersey Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ Gladwell, Ben (ngày 2 tháng 4 năm 2017). “Rising Star: Bayer Leverkusen's Kai Havertz”. Bundesliga. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ Mende, Jens; Krṻhler, Andreas (ngày 20 tháng 5 năm 2017). “Hertha trotz 2:6 gegen Bayer kurz vor Europa”. Dewezet. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2017.(bằng tiếng Đức)
- ^ “Werder Bremen v Bayer Leverkusen”. Soccerway. ngày 15 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Bayer Leverkusen's Kai Havertz becomes youngest player in history to reach 50 appearances”. Bundesliga. ngày 14 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Bayer Leverkusen: record de précocité pour Kai Havertz”. L'Équipe (bằng tiếng Pháp). Paris. ngày 14 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Bayer Leverkusen's Kai Havertz: "I should be aiming for the Germany national team"”. Bundesliga. ngày 24 tháng 8 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Bayer Leverkusen up to 9th after Kai Havertz-inspired win over Hertha Berlin”. Bundesliga. ngày 24 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2018.
- ^ “Kai Havertz becoming the real deal at Bayer Leverkusen”. Bundesliga. 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Kai Havertz, Kevin Volland and Julian Brandt fire Bayer Leverkusen past Wolfsburg”. Bundesliga. ngày 27 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz and Leon Bailey fire Bayer Leverkusen to victory over Fortuna Düsseldorf”. Bundesliga. ngày 17 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz scores on 100th appearance as Bayer Leverkusen down VfB Stuttgart”. Bundesliga. ngày 13 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz on target again as Bayer Leverkusen smash six past Eintracht Frankfurt in record-breaking game”. Bundesliga. ngày 5 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz, Lucas Alario and Julian Brandt secure Champions League spot for Bayer Leverkusen”. Bundesliga. ngày 18 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2019.
- ^ “Borussia Dortmund captain Marco Reus named Germany's Footballer of the Year 2019”. Bundesliga. ngày 29 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz makes history as Bayer Leverkusen overcome new boys Paderborn”. Bundesliga. ngày 18 tháng 8 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2019.
- ^ “Kai Havertz: 100 Bundesliga appearances for Bayer Leverkusen at 20”. Bundesliga. ngày 15 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2019.
- ^ “Inter Milan 2–1 Bayer Leverkusen – as it happened”. Bundesliga. 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea have Havertz”. Chelsea F.C. ngày 4 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Transfer completed: Havertz joins Chelsea”. bayer04.de. ngày 4 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
- ^ Law, Matt (ngày 4 tháng 9 năm 2020). “Kai Havertz completes move to Chelsea for £62million”. The Daily Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Kai Havertz: Chelsea sign Bayer Leverkusen midfielder for £71m”. BBC Sport. ngày 4 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Havertz admits Premier League is 'much tougher than the Bundesliga' after testing Chelsea debut”. Goal.com. Perform Group. ngày 15 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Chelsea 6–0 Barnsley: Kai Havertz hits hat-trick as Blues romp into round four of Carabao Cup”. Sky Sports. ngày 23 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Chelsea 3–3 Southampton: Blues must cut out individual errors – Frank Lampard”. BBC Sport. ngày 17 tháng 10 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Chelsea making impressive progress”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2020.
- ^ “Man. City 0-1 Chelsea: Havertz gives Blues second Champions League triumph”. UEFA. ngày 29 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
- ^ “Chelsea Defeats Man City to Win Champions League Final Behind Havertz Goal”. Sports Illustrated. ngày 29 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
- ^ “Uefa Super Cup RECAP: Chelsea beat Villarreal on penalties thanks to Kepa heroics”. Mirror. ngày 11 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
- ^ McNulty, Phil (ngày 28 tháng 8 năm 2021). “Liverpool 1–1 Chelsea”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2022.
- ^ Steinberg, Jacob (ngày 12 tháng 2 năm 2022). “Chelsea crowned world champions after Kai Havertz penalty sinks Palmeiras”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2022.
- ^ “Kai Havertz earns Chelsea controversial win as West Ham rue disallowed goal”. The Guardian. ngày 3 tháng 9 năm 2022.
- ^ “Salzburg 1–2 Chelsea”. UEFA. ngày 25 tháng 10 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Kai Havertz joins on long-term contract”. Arsenal FC (bằng tiếng Anh). 28 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Kai Havertz: Arsenal sign Chelsea forward in deal worth about £65m”. BBC Sport. 28 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ Minh Đăng (7 tháng 8 năm 2023). “Đánh bại Man City, Arsenal đoạt Siêu cúp Anh 2023”. Báo Tin Tức. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
- ^ Tiến Trung (30 tháng 9 năm 2023). “Đè bẹp Bournemouth, Arsenal theo sát Man City”. Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
- ^ “U 16 Länderspiel: Tschechische Republik – Deutschland” [Under-16 international: Czech Republic – Germany] (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 11 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “U 17-EM: Unser Team für Aserbaidschan” [European Under-17 Championship: Our team for Azerbaijan] (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 4 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “U 19 Länderspiel: Schweiz – Deutschland” [Under-19 international: Switzerland – Germany] (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 31 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “U 19 EM Qualifikation: Deutschland – Weißrussland” [Under-19 Euro qualification: Germany – Belarus] (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 4 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ a b “Kai Havertz receives maiden Germany call-up for UEFA Nations League opener with France”. Bundesliga. ngày 30 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2018.
- ^ “Nations League: Drei Neue, drei Rückkehrer” [Nations League: Three new players, three returnees] (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 29 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “Erstes Spiel, erstes Tor: Debütant Schulz trifft zum Sieg” [First match, first goal: debutant Schulz scores for victory]. kicker (bằng tiếng Đức). Olympia-Verlag. ngày 9 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Scout Report: Leverkusen midfielder Kai Havertz”. UEFA. ngày 20 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2019.
- ^ “EM-Kader offiziell: Löw beruft Müller, Hummels und Volland”. kicker.de (bằng tiếng Đức). ngày 19 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
- ^ “Two Portugal own goals help Germany to win in six-goal thriller”. ESPN. ngày 19 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
- ^ Namboothiri, Adithya (ngày 24 tháng 6 năm 2021). “Euro 2020: Germany 2-2 Hungary Post-Match Analysis”. FootballExpress.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Flick beruft Moukoko, Füllkrug und Götze in WM-Kader” (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 10 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2022.
- ^ “World Cup 2022 - Costa Rica 2-4 Germany: Four-time tournament winners exit at group stage again”. Sky Sports. ngày 1 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2023.
- ^ a b “Kai Havertz becoming the real deal at Bayer Leverkusen”. Bundesliga. ngày 15 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
- ^ Wallrodt, Lars (ngày 21 tháng 2 năm 2017). “Dieser 17-Jährige gilt als Deutschlands neuer Özil”. Welt. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.(bằng tiếng Đức)
- ^ “Cầu thủ Đức được ví như Zinedine Zidane”. VnExpress. ngày 4 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “"Kai Havertz is the best player in Bayer Leverkusen's history" - Rudi Völler”. Bundesliga.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Kai Havertz: Tiền vệ trẻ xuất sắc nhất châu Âu?”. Bóng Đá +. ngày 3 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
- ^ a b c d “K. Havertz: Summary”. Soccerway. Perform Group. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Trận thi đấu của Kai Havertz trong 2020/2021”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Trận thi đấu của Kai Havertz trong 2021/2022”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Trận thi đấu của Kai Havertz trong 2022/2023”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2023.
- ^ “Trận thi đấu của Kai Havertz trong 2023/2024”. Soccerbase. Centurycomm.
- ^ Kai Havertz tại National-Football-Teams.com
- ^ “DFB-Pokal 2019/20, Finale in Berlin: Bayer 04 Leverkusen 2:4 Bayern München: Aufstellung” [DFB-Pokal 2019/20, Final in Berlin: Bayer 04 Leverkusen 2:4 Bayern Munich: Lineup]. Kicker (bằng tiếng Đức). Olympia-Verlag. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2023.
- ^ McNulty, Phil (29 tháng 5 năm 2021). “Manchester City 0–1 Chelsea”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2022.
- ^ Sterling, Mark (11 tháng 8 năm 2021). “Chelsea 1–1 Villarreal”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Chelsea 2–1 Palmeiras”. BBC Sport. 12 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2022.
- ^ Rose, Gary (6 tháng 8 năm 2023). “Arsenal 1–1 Manchester City (4–1 on pens): Gunners win shootout to secure Community Shield”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Fritz-Walter-Medaille für Ehegötz, Henrichs und Itter” [Fritz Walter Medal for Ehegötz, Henrichs and Itter]. DFB.de (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 8 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “Fritz-Walter-Medaille in Gold an Havertz, Katterbach und Pawollek” [Fritz Walter medal in gold for Havertz, Katterbach and Pawollek]. DFB.de (bằng tiếng Đức). German Football Association. ngày 24 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
- ^ “This is the Team of the season 2018/19”. bundesliga.com. ngày 27 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Bayer Leverkusen's Kai Havertz wins Bundesliga Player of the Month for May!”. Bundesliga. tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
- ^ “Champions League breakthrough team of 2019”. UEFA.com. UEFA.com Reporters & Editors. ngày 30 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Thông tin về Kai Havertz trên trang web của DFB.de
- Thông tin về Kai Havertz trên trang web kicker.de
- Sinh năm 1999
- Nhân vật còn sống
- Người Đức
- Cầu thủ bóng đá Đức
- Cầu thủ bóng đá nam Đức
- Tiền vệ bóng đá
- Tiền vệ bóng đá nam
- Tiền đạo bóng đá
- Tiền đạo bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá Bayer Leverkusen
- Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
- Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
- Cầu thủ bóng đá Bundesliga
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia Đức
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Đức
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Đức
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Đức
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
- Cầu thủ bóng đá Đức ở nước ngoài
- Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài