Bước tới nội dung

Granada

37°10′41″B 003°36′3″T / 37,17806°B 3,60083°T / 37.17806; -3.60083
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Granada
Granada
Hiệu kỳ của
Hiệu kỳ

Ấn chương
Granada trên bản đồ Thế giới
Granada
Quốc gia Tây Ban Nha
VùngAndalusia
TỉnhGranada
Quận (comarca)Vega de Granada
Thủ phủGranada city
Chính quyền
 • Thị trưởngJosé Torres Hurtado (PP)
Diện tích
 • Đất liền88 km2 (34 mi2)
Độ cao738 m (2,421 ft)
Dân số (2007)
 • Tổng cộng237,929
 • Mật độ2,703/km2 (7,000/mi2)
Múi giờUTC+1, UTC+2
 • Mùa hè (DST)CEST (GMT +2) (UTC+2)
Mã bưu chính18000
Thành phố kết nghĩaFreiburg im Breisgau, Aix-en-Provence
Ngôn ngữ bản xứTiếng Tây Ban Nha
Tọa độ37°10′41″B 003°36′3″T / 37,17806°B 3,60083°T / 37.17806; -3.60083
Năm mật độ dân số2007
Websitewww.granada.org

Granada (tiếng Tây Ban Nha) là thành phố ở phía nam Tây Ban Nha, thủ phủ của tỉnh cùng tênAndalucía, dưới chân dãy núi Sierra Nevada, nơi hợp lưu của sông Genilsông Darro. Thành phố nằm ở độ cao 738 m trên mực nước biển. Theo điều tra dân số năm 2005, thành phố này có 236.982 dân, dân số toàn bộ khu vực thành thị là 472.638, là khu vực lớn thứ 3 ở vương quốc Tây Ban Nha. Khoảng 3,3% dân số thành phố này không phải là công dân Tây Ban Nha, con số lớn nhất trong số 3% này (31%) đến từ Nam Mỹ. Sân bay gần nhất của thành phố này là sân bay Granada.

Thành phố này có những di tích của nền văn minh Moors như các pháo đài và cung điện của các vị vua Moors. Trường đại học ở đây được Charles V, hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh chuẩn y thành lập. Thành phố có đại giáo đường được xây trong thời gian 1523-1703, nhà thờ hoàng gia có mộ của Ferdinand VIsabella I. Thành phố này là trung tâm công nghiệp với các ngành: mía đường, bia rượu, hóa chất, hàng da và dệt. Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng đối với Granada. Granada được người Moors lập vào thế kỷ 8 gần một khu định cư cổ La Mã. Giữa giai đoạn 1036 và 1234, đây là một phần của Tây Ban Nha thuộc Moors. Cuối giai đoạn đó, khi người Moors bị tước hết quyền kiểm soát Tây Ban Nha, thành phố này đã thay Córdoba làm thủ phủ của phần lãnh thổ Moors còn lại gọi là vương quốc Granada. Thành phố Granada vào lúc này trở thành một khu vực thịnh vượng, là một trung tâm mậu dịch giàu có, nổi tiếng là một trung tâm nghệ thuật, văn học và khoa học. Thành phố tiếp tục phát triển khoảng 1 thế kỷ cho đến khi Tây Ban Nha chiếm vương quốc Granada năm 1492. Trong thời kỳ nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939), phe dân tộc chiếm thành phố nhưng phe bảo hoàng chiếm giữ phần còn lại của tỉnh Granada cho đến cuối cuộc chiến.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử ban đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Vùng xung quanh nơi ngày nay là Granada đã được đinh cư sớm nhất ít nhất từ 5500 TCN và có ảnh hưởng từ La MãVisigoth. Tàn tích cổ nhất được tìm thấy trong thành phố thuộc về một thành phố của người Iberia gọi là Ilturir, ở vùng được biết đến là Bastetania. Thành phố này cuối cùng đổi tên thành Iliberri, và sau sự chinh phục Iberia của La Mã, thành Municipium Florentinum Iliberitanum.[1]

Thành lập

[sửa | sửa mã nguồn]

Triều đại Nasrid—tiểu vương quốc Granada

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc huy của Nasrid quốc Granada trong phòng Palacio de Comares tại Alhambra

Năm 1228, khi hoàng tử Idris al-Ma'mun của Almohad rời Iberia để đi chỉ huy Almohad, Ibn al-Ahmar thành lập triều đại Hồi giáo kéo dài nhất tại bán đảo Iberia, triều đại Nasrid. Với thời kỳ Tái Chinh Phục hoàn toàn sau khi chinh phục Córdoba năm 1236, triều Nasrid liên kết với Fernando III của Castile, chính thức trở thành Tiểu vương quốc Granada năm 1238.[2] Theo các sử gia, Granada là một triều cống của Vương quốc Castile kể từ năm đó. Nó cung cấp kết nối với các trung tâm thương mại Hồi giáo và Ả Rập, đặc biệt đối với vàng từ tiểu vùng Saharan Châu PhiMaghreb, và xuất khẩu lụatrái cây khô sản xuất ở khu vực này.[3] Triều Nasrid cũng cung cấp quan đội từ Tiểu vương quốc và lính đánh thuê từ Bắc Phi đến Castile.

Ibn Battuta, một nhà du hành nổi tiếng và một nhà sử học đích thực, viếng thăm vương quốc Granada năm 1350. Ông mô tả nó như là một vương quốc hùng mạnh và tự cung tự cấp, mặc dù thường xuyên bị lôi kéo vào các cuộc đụng độ với Vương quốc Castile. Nếu nó thật sự là một quốc gia chư hầu, nó trái với chính sách của Reconquista để cho phép nó phát triển trong gần hai thế kỷ rưỡi sau khi Sevilla thất bại năm 1248.

Trong thời kì thống trị của Moor, Granada Là một thành phố với nhiều tôn giáo và sắc tộc (người Ả Rập, Người Berber, Kitô hữuNgười Do Thái), họ đã sống ở từng khu riêng biệt.

Tái chinh phục bởi người Tây Ban Nha Công giáo chống lại Hồi giáo và thế kỷ 16

[sửa | sửa mã nguồn]

Di sản và công trình lớn

[sửa | sửa mã nguồn]
Alhambra
Albaicín

Alhambra là một "thành phố cung điện" của Nasrid. Nó được công bố là di sản văn hóa bở UNESCO năm 1984. Nó chắc chắn là công trình biểu tượng nhất của Granada và là một trong những địa điểm được ghé thăm nhiều nhất ở Tây Ban Nha. Nó bao gồm vùng bảo vệ, Alcazaba, cùng với các vùng định cư, cung điện Nasrid, và cuối cùng là cung điện, vườn và vườn cây của El Generalife.

Alhambra nằm ở một cao nguyên ngỏ ở biên giới phía đông nam của thành phố ở chân đồi Sierra Nevada trên thung lũng Assabica. Một số tòa nhà có thể tồn tại trước khi người Moor đến. Toàn bộ Alhambra có tường bao quanh, tiếp giáp phía bắc với thung lũng Darro, phía nam với al-Sabika, và phía đông với Cuesta del Rey Chico, lần lượt ngăn cách với Albayzín và Generalife, nằm ở Cerro del Sol.

Vào thế kỷ 11 lâu đài Alhambra được phát triển làm một thị trấn có thành bao bọc mà trở thành một pháo đài quân sự thống trị toàn bộ thành phố. Nhưng trong thế kỷ 13, khi vua đầu tiên của triều đại Nasrid, Mohammed I ibn Nasr (Mohammed I, 1238–1273) đến đây, ông là cư dân hoàng gia đầu tiên sống trong Alhambra. Việc này đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ hoàng kim. Alhambra trở thành cung điện, thành trì và pháo đài, và là nơi cư ngụ của các nhà lãnh đạo Nasrid và các quan chức cấp cao của họ, bao gồm các công chức của tòa án và những người lính ưu tú (thế kỷ 13–14).

Năm 1492 những quân chủ Công giáo, Ferdinand và Isabela, bị trục xuất khỏi thành phố Granada. Họ thường trú tại Alhambra, và đây là nơi Christopher Columbus yêu cầu sự phê chuẩn của hoàng gia cho chuyến thám hiểm hướng tây vào năm đó.

Năm 1527 Karl V của Thánh chế La Mã dùng một phần của khu kiến trúc này để xây dựng cung điện mang tên ông. Mặc dù Quân chủ Công giáo đã thay đổi một số phòng của Alhambra sau khi chinh phục thành phố vào năm 1492, Charles V muốn xây dựng một nơi ở vĩnh viễn phù hợp với một vị hoàng đế. Khoảng năm 1537 ông ra lệnh xây dựng Peinador de la Reina, hay phòng thay đồ Nữ hoàng, nơi Isabel - vợ ông - sống, trên tháp Abu l-Hayyay.

Đã có một chặng dừng trong việc duy trì Alhambra từ thế kỷ 18 trong gần một trăm năm, và trong thời Pháp thuộc các phần chính của pháp đài đã bị chia tách. Việc sửa chữa, phục hồi và bảo tồn vẫn tiếp tục cho đến ngày nay bắt đầu vào thế kỷ 19. Khu phức hợp hiện nay bao gồm Bảo tàng Alhambra, với các vật thể chủ yếu từ khu di tích của công trình và Bảo tàng Mỹ thuật.[4]

Ảnh toàn cảnh Alhambra với dãy núi Sierra Nevada ở phía sau.

Generalife

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà thờ lớn

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nguyện hoàng gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Albayzín (hoặc Albaicín) là một vùng có nguồn gốc Al-Andalus, được ghé thăm nhiều bởi du khách nhờ có các công trình kiến trúc và cảnh quan của nó.

Các phát hiện khảo cổ học trong khu vực cho thấy nó đã được cư ngụ từ thời cổ đại. Nó đã trở nên có liên quan hơn với sự xuất hiện của triều đại Zirid, vào năm 1013, khi nó được bao quanh bởi tường phòng thủ. Đây là một trong những trung tâm cổ xưa của Granada, giống như Alhambra, Realejo và Arrabal de Bib-Rambla, nằm trong vùng bằng phẳng của thành phố. Phần mở rộng hiện tại của nó chạy từ các bức tường của Alcazaba tới cerro của San Miguel và mặt khác, từ Puerta de Guadix đến Alcazaba.

Vùng dân cư này phát triển nhiều nhất trong thời đại Nasrid, và do đó những gì còn lại phần lớn của thời kỳ này, với những con đường hẹp sắp xếp thành mạng lưới phức tạp mở rộng từ vùng phía trên, gọi là San Nicolás, đến Darro và Calle Elvira, năm ở Plaza Nueva. Loại nhà truyền thống là Carmen granadino, bao gồm một ngôi nhà được bao quanh bởi một bức tường cao ngăn cách nó khỏi đường phố và bao gồm một vườn nhỏ.

Sacromonte

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà tế bần

[sửa | sửa mã nguồn]

Realejo là quận Do Thái trong khoảng thời gian Nasrid của Granada. Dân số người Do Thái rất quan trọng đến mức Granada được biết đến ở Al-Andalus với cái tên "Granada của người Do Thái" (Gharahar al-Yahūd). Ngày nay nó là một quận gồm nhiều biệt thự kiểu Andalusia, với những khu vườn dẫn ra đường, được gọi là "Los Cármenes".

Quận này bao gồm tu viện Carthusia có cùng tên: Cartuja. Đây là một tu viện cổ bắt đầu theo kiểu hậu Gothic với trang trí nội thất phong phú kiểu Baroque. Cũng trong quận này, nhiều tòa nhà được tạo ra với sự mở rộng của Đại học Granada.

Bib-Rambla

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên khu vực tồn tại vào thời của người Ả rập. Ngày nay, Bib-Rambla là một điểm nổi bật về ẩm thực, đặc biệt là các nhà hàng trên sân thượng, mở cửa vào những ngày đẹp trời. Khu chợ Ả Rập (Alcaicería) được tạo thành từ một số đường phố hẹp, bắt đầu từ nơi này và tiếp tục đến nhà thờ lớn.

Sacromonte

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu Sacromonte nằm trên khu vực mở rộng của đồi Albaicín, dọc theo sông Darro. Khu vực này trở nên nổi tiếng vào thế kỷ 19 về người dân Gitano, nó đặc trưng bởi nhà trong hang, thứ mà được đào vào sườn núi. Khu vực này có tiếng là trung tâm của các bài hát và điệu nhảy flamenco, bao gồm Zambra Gitana, điệu nhảy Andalusia bắt nguồn từ Trung Đông. Vùng này được bảo vệ môi trường văn hóa dưới sự bảo trợ của Centro de Interpretación del Sacromonte, một trung tâm văn hóa dành cho việc bảo tồn các hình thức văn hóa Gitano.

Albayzín (cũng được viết là Albaicín), nằm ở trên đồi và ở bờ bên phải của sông Darro, là phố cổ người Moor của thành phố và đưa du khách đến một thế giới độc nhất: thành phố cổ này còn có tên là Elvira, trước khi người Moor triều đại Zirid đổi tên nó thành Granada. Nó là nơi ở của các nghệ sĩ đã đi lên để xây dựng cung điện Alhambra trên đồi đối diện. Thời gian trôi qua nó càng được trang trí thêm. Đặc biệt là Plaza de San Nicolas (Quảng trường thánh Nicholas) nơi có thể nhìn thấy cảnh quan tuyệt đẹp của Alhambra. Nghệ sĩ George Owen Wynne Apperley RA RI (1884–1960) sử hữu nhà ở cả hai bên của Placeta de San Nicolás, còn được gọi là El Mirador.

Nơi này trước đây là nơi của tầng lớp công nhân nhưng bây giờ là khu phố thượng lưu có 100.000 cư dân của Granada, khiến nó trở thành khu dân cư hay 'barrio' lớn nhất. Theo truyền thống cư dân là người La Mã, bây giờ nhiều cư dân từ Bắc và Tây Phi, Trung Quốc và các nước Nam Mỹ. Mỗi sáng thứ bảy đều có một trợ ngoài trời lớn hay "mercadillo" họp ở đây, nơi nhiều người đến và bán các sản phẩm trái cây và rau quả, quần áo và giày dép và các thứ khác.

Ảnh toàn cảnh từ Alhambra

Công viên và vườn

[sửa | sửa mã nguồn]

Có rất nhiều công viên và vườn ở thành phố Granada, bao gồm:[5]

Công viên khoa học Granada

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Do khoảng cách của nó đến Đại Tây Dương, Granada giáp danh với khí hậu bán khô hạn (Köppen climate classification: BSk). Thành phố này nằm trên giới hạn phía đông của vùng khí hậu Địa Trung Hải của vùng tây nam Tây Ban Nha; do đó khí hậu của nó tiếp giáp với Khí hậu Địa Trung Hải mùa hè-nóng (Csa), nó nhận được lượng mưa vừa đủ với cơ chế giáng thủy điển hình của khí hậu Địa Trung Hải. Mùa hè nóng và khô với nhiệt độ hàng ngày trung bình 34 °C (93 °F) trong tháng nóng nhất (tháng 7); tuy nhiên, nhiệt độ đạt tới hơn 40 °C (104 °F) không phổ biến vào những tháng hè. Mùa đông lạnh và ẩm, và hầu hết lượng mưa tập trung vào từ tháng 11 đến tháng 1. Tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ trung bình hàng ngày 13 °C (55 °F) và giảm xuống khoảng 1 °C (34 °F) vào ban đêm. Băng giá khá phổ biến vì nhiệt độ thường đạt tới dưới độ đóng băng vào sáng sớm. Mùa xuân và mùa thu không dự đoán được, với nhiệt độ từ ôn đới đến ấm.

Dữ liệu khí hậu của Granada (Granada Base Aérea, altitude 687 m, 2.254 ft)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 41
(1.6)
33
(1.3)
35
(1.4)
37
(1.5)
30
(1.2)
11
(0.4)
2
(0.1)
3
(0.1)
23
(0.9)
38
(1.5)
50
(2.0)
50
(2.0)
353
(14)
Số ngày tuyết rơi trung bình 0 0 0 0 0 0 2
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 72 68 60 57 51 43 37 41 51 62 71 75 57
Số giờ nắng trung bình tháng 170 172 219 234 280 331 362 330 254 211 164 148 2.881
Nguồn: Agencia Estatal de Meteorología[6]
Ảnh toàn cảnh thành phố Granada, 2013

Người nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]

và nhà thơ

Nó là chủ đề của bài hát năm 1967 "Vuelvo a Granada" bởi Miguel Ríos.[8]

Vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc xây dựng mạng lưới tàu điện, Granada metro, bắt đầu năm 2007. Nó sẽ đi qua Granada và đến các thị trấn Albolote, MaracenaArmilla, metro được lên lịch mở cửa năm 2016.[9][10]

Các lựa chọn vận tải khác ở thành phố Granada là tàu, taxi hoặc xe buýt.

Công ty vận hành xe buýt chính ở Granada là Transportes Rober. Cũng có xe buýt đến sân bay của công ty Alsa.

Granada có liên kết đường sắt với nhiều thành phố ở Tây Ban Nha. Có một vài loại tàu đến và đi từ Granada[11]

  • Tàu khoảng cách ngắn
  • Tàu khoảng cách trung bình
  • Tàu khoảng cách lớn
  • AVE (vận tốc nhanh khoảng cách lớn). Liên kết AVE gần nhất là Antequera.

Granada có một mạng lưới taxi rộng để giúp du khách đến các địa điểm. Taxi chính thức của Granada có màu trắng với một sọc xanh lá cây.

Sân bay gần nhất là sân bay Federico García Lorca, khoảng 15 km về phía tây của Granada.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]

Granada có ba đội bóng đá:

Granada có một đội bóng rổ:

Trượt tuyết:

Thành phố và thị trấn kết nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Granada có các thành phố kết nghĩa sau:[12]

Thành phố nhìn từ lâu đài Alhambra

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ RingSalkinLa Boda 1995, tr. 296.
  2. ^ Colum Hourihane 2012.
  3. ^ Hugh Kennedy; Professor of Arabic Hugh Kennedy (ngày 11 tháng 6 năm 2014). Muslim Spain and Portugal: A Political History of Al-Andalus (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 277. ISBN 978-1-317-87041-8.
  4. ^ “Historical introduction of the Alhambra” (bằng tiếng Anh). Alhambradegranada.org. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  5. ^ “Parques y Jardines de Granada” (bằng tiếng Anh). Granadatur.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  6. ^ “Valores climatológicos normales. Granada Base Aérea” (bằng tiếng Tây Ban Nha).
  7. ^ “Valores climatológicos normales. Granada Aeropuerto” (bằng tiếng Tây Ban Nha).
  8. ^ “Miguel Ríos – El Río / Vuelvo A Granada”. Discogs (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2016.
  9. ^ Molina, Margot (ngày 1 tháng 7 năm 2014). “La Junta avala el último tramo del Metro de Granada que funcionará en 2015”. El País (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ “Metropolitano de Granada: Inicio”. www.metropolitanogranada.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2016.
  11. ^ “Tàu Granada”. Visit Granada (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2017.
  12. ^ a b c d e f g h “CIUDADES CON LAS QUE ESTÁ HERMANADA GRANADA” (trang web chính thức) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Granada, Tây Ban Nha: Ayuntamiento de Granada. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
  13. ^ “Thành phố Coral Gables: Sister Cities” (bằng tiếng Anh). Thành phố Coral Gables. 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2014.
  14. ^ “Sultan attends signing of Sharjah-Granada sister city agreement UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]