Bước tới nội dung

Wikipedia:Bài viết chọn lọc/2013

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025
Bài viết chọn lọc năm 2013
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Tuần 1

Vị trí quần đảo Trường Sa.

Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: Spratly Islands) là một tập hợp thực thể địa lí được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù phú và có tiềm năng dầu mỏkhí đốt thuộc biển Đông. Tuy nhiên, quần đảo này đang trong tình trạng tranh chấp ở các mức độ khác nhau giữa sáu bên là Brunei, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Malaysia, Philippines, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)Việt Nam. Ở cấp độ quốc tế, phạm vi của khái niệm Spratly Islands vẫn chưa được xác định rõ và đang trong vòng tranh cãi. Ở cấp độ quốc gia cũng có các cách hiểu khác nhau. Tuy Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam trên danh nghĩa đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệm quần đảo Nam Sa trong nhận thức của Đài Loan và Trung Quốc là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lí nằm bên trong phần phía nam của đường chín đoạn. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi là Nhóm đảo Kalayaan. Về phần Malaysia, nước này đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Cuối cùng, chưa rõ Brunei đòi hỏi cụ thể thực thể địa lí nào vì chỉ thấy nước này đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc biển Đông toạ lạc. [ Đọc tiếp ]

Tuần 2

Tàu sân bay Nhật Bản Akagi, tháng 4 năm 1942, ảnh chụp từ một máy bay vừa cất cánh.

Akagi là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc tỉnh Gunma của Nhật Bản ngày nay. Nguyên được đặt lườn như một tàu chiến-tuần dương lớp Amagi, Akagi được cải biến thành tàu sân bay trong lúc còn đang được chế tạo nhằm tuân thủ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington. Sau khi Đế quốc Nhật Bản rút lui khỏi hiệp ước vào cuối năm 1934, con tàu được tái cấu trúc từ năm 1935 đến năm 1938, khi ba sàn cất hạ cánh được gộp chung thành một sàn đáp duy nhất mở rộng và một đảo cấu trúc thượng tầng. Là chiếc tàu sân bay Nhật Bản thứ hai được đưa vào hoạt động và là chiếc tàu sân bay lớn đầu tiên (còn gọi tàu sân bay hạm đội), Akagi có vai trò nổi bật trong việc phát triển học thuyết lực lượng tấn công tàu sân bay mang tính cách mạng, trong đó tập hợp các tàu sân bay lại để có sức mạnh không lực tập trung. Học thuyết này đã giúp Nhật Bản đạt được những mục tiêu chiến lược trong sáu tháng đầu tiên của trận chiến Thái Bình Dương. Máy bay của Akagi đã tham gia cuộc Chiến tranh Trung-Nhật vào cuối những năm 1930. Sau khi thành lập Không hạm đội 1 hoặc Kido Butai (Lực lượng Tấn công) vào đầu năm 1941, nó trở thành soái hạm cho đến hết quãng đời hoạt động. [ Đọc tiếp ]

Tuần 3

Bánh Pi.

Số π là một hằng số toán học có giá trị bằng tỷ số chu vi đường tròn chia cho đường kính của đường tròn đó. Hằng số này, đôi khi được viết là pi, xấp xỉ bằng 3,14159. Nó được biểu diễn bằng chữ cái Hy Lạp π từ giữa thế kỉ 18. π là một số vô tỉ, nghĩa là không thể biểu diễn chính xác nó thành tỉ số của hai số nguyên (chẳng hạn như 22/7 hay các phân số khác thường dùng để xấp xỉ π); do đó, biểu diễn thập phân của nó không bao giờ kết thúc và không bao giờ tuần hoàn. Hơn nữa, π còn là một số siêu việt - tức là một số không phải là nghiệm của bất kì đa thức khác không với hệ số hữu tỉ nào. Tính siêu việt của π ngụ ý rằng không thể nào giải đáp được thách thức có từ thời cổ về cầu phương hình tròn chỉ với compa và thước kẻ. Các con số trong biểu diễn thập phân của π dường như xuất hiện theo một thứ tự ngẫu nhiên, mặc dù người ta chưa tìm được bằng chứng nào cho tính ngẫu nhiên này. Trong hàng ngàn năm, các nhà toán học đã nỗ lực mở rộng hiểu biết của con người về số π, đôi khi bằng việc tính toán giá trị của nó với độ chính xác ngày càng cao. Trước thế kỉ 15, các nhà toán học như ArchimedesLưu Huy đã sử dụng các kĩ thuật hình học, dựa trên các đa giác, để đánh giá giá trị của π. Bắt đầu từ thế kỉ 15, những thuật toán mới dựa trên chuỗi vô hạn đã cách mạng hóa việc tính toán số π, và được những nhà toán học bao gồm Madhava của Sangamagrama, Isaac Newton, Leonhard Euler, Carl Friedrich Gauss, và Srinivasa Ramanujan sử dụng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 4

Thiết giáp hạm SMS Westfalen

SMS Westfalen là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp Nassau được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Westfalen được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen vào ngày 12 tháng 8 năm 1907, được hạ thủy một năm sau đó vào ngày 1 tháng 7 năm 1908, và được đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi Đức vào ngày 16 tháng 11 năm 1909. Con tàu được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai khẩu pháo 28 cm (11 in) bố trí trên sáu tháp pháo nòng đôi theo một sự sắp xếp hình lục giác khá bất thường. Westfalen đã phục vụ cùng với các con tàu chị em cùng lớp trong hầu hết Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hoạt động rộng rãi tại Bắc Hải, nơi nó tham gia nhiều cuộc xuất kích của hạm đội. Chúng lên đến đỉnh điểm trong Trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916, nơi mà Westfalen phải chiến đấu trong một trận chiến đêm ác liệt chống lại một lực lượng hạng nhẹ Anh. Westfalen đã dẫn đầu hàng chiến trận Đức trong hầu hết buổi chiều tối và sang ngày hôm sau, cho đến khi hạm đội quay về đến Wilhelmshaven. Trong một đợt tiến quân khác của hạm đội vào tháng 8 năm 1916, con tàu bị hư hại do trúng phải ngư lôi từ một tàu ngầm Anh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 5

Mùi cỏ cháy là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại tâm lý xã hội, chiến tranh. Bối cảnh chính của phim là Mùa hè đỏ lửa 1972 với trận chiến tại Thành cổ Quảng Trị. Nhân vật chính trong phim là bốn sinh viên trường đại học Tổng hợp Hà Nội Hoàng, Thành, Thăng, Long theo lệnh tổng động viên lên đường nhập ngũ năm 1971, được huấn luyện tốc hành và sau cùng đã tham gia chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Tại đây, Thành, Thăng, Long đã hy sinh còn Hoàng may mắn sống sót trở về. Bộ phim được kể lại từ ký ức của Hoàng, khi ông thăm lại chiến trường xưa. Mùi cỏ cháy do Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất. Kịch bản của phim do nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đảm nhiệm, dựa trên quyển nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Khởi quay từ tháng 12 năm 2010, bộ phim được đặc cách tham dự Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 tại Tuy Hòa, Phú Yên, được chiếu giới thiệu tại Lễ Khai mạc tuần phim và đoạt giải Bông Sen Bạc. Ngày 17 tháng 3 năm 2012, phim đã được trao bốn giải Cánh diều vàng cho phim điện ảnh xuất sắc, âm nhạc xuất sắc (nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân), biên kịch xuất sắc (Hoàng Nhuận Cầm) và quay phim xuất sắc nhất (Nghệ sĩ ưu tú Phạm Thanh Hà) tại Lễ trao giải Cánh diều Vàng 2011. Bộ phim được được Cục Điện ảnh chọn chiếu khai mạc đợt phim kỷ niệm các ngày lễ lớn tháng 4 và tháng 5 năm 2012 và tiếp tục công chiếu trong tuần phim kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh, liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2012. [ Đọc tiếp ]

Tuần 6

Thiết giáp hạm Bismarck vào năm 1940.

Bismarck là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, với tên được đặt theo vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19 Otto von Bismarck, người có công lớn nhất trong việc thống nhất nước Đức vào năm 1871. Nó được đặt lườn tại xưởng đóng tàu Blohm & Voss ở Hamburg vào tháng 7 năm 1936 và được hạ thủy hai năm rưỡi sau đó, vào tháng 2 năm 1939. Công việc chế tạo hoàn tất vào tháng 8 năm 1940. Bismarck cùng với con tàu chị em Tirpitz là những tàu chiến lớn nhất từng được Đức chế tạo và là hai trong số những tàu chiến lớn nhất được chế tạo bởi các thế lực hải quân châu Âu. Trong quá trình phục vụ vỏn vẹn chỉ có tám tháng và dưới quyền chỉ huy duy nhất của Đại tá Hải quân Ernst Lindemann, Bismarck chỉ tham gia một chiến dịch duy nhất vào tháng 5 năm 1941 dưới tên mã Chiến dịch Rheinübung. Nó đã cùng chiếc tàu tuần dương hạng nặng Prinz Eugen rời Gotenhafen (Gdynia) sáng ngày 19 tháng 5 năm 1941 đột phá ra Đại Tây Dương với mục đích đánh chặn và tiêu diệt các đoàn tàu vận tải đang trên đường từ Bắc Mỹ đến Anh Quốc. Tuy nhiên, cả hai nhiều lần bị phát hiện ngoài khơi Scandinavia, và các đơn vị của Hải quân Hoàng gia Anh được bố trí để chặn đường. Trong trận chiến eo biển Đan Mạch, Bismarck đã đụng độ và tiêu diệt chiếc tàu chiến-tuần dương Anh HMS Hood (51), niềm kiêu hãnh của Hải quân Hoàng gia, và buộc thiết giáp hạm Prince of Wales phải rút lui. Bản thân Bismarck bị bắn trúng ba lần, và bị rò rỉ nhiên liệu từ một thùng chứa bị vỡ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 7

Nhàn mào

Nhàn mào (Thalasseus bergii) là một loài chim biển trong họ Nhàn, gồm năm phân loài, làm tổ thành từng tập đoàn dày đặc ở các bờ biển và hòn đảo tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Cựu Thế giới. Loài này sinh sản ở các khu vực từ Cộng hòa Nam Phi, vòng quanh Ấn Độ Dương đến giữa Thái Bình Dương và nước Úc. Toàn bộ các cá thể sẽ di trú khỏi khu vực sinh sản sau khi làm tổ. Loài này có quan hệ rất gần gũi với Thalasseus maximus ("nhàn hoàng gia") và Thalasseus bengalensis ("nhàn mào nhỏ") nhưng có thể phân biệt được chúng qua kích cỡ và màu sắc của mỏ. Phần trên cơ thể (phần lưng) của nhàn mào có màu xám, phần dưới (phần bụng) có màu trắng, mỏ vàng và cái mào bờm xờm màu đen (cụp ra phía sau vào mùa đông). Con non có bề ngoài khác biệt với bộ lông hằn rõ màu xám, nâu và trắng; chúng dựa vào nguồn thức ăn từ cha mẹ trong vài tháng sau khi đủ lông đủ cánh. Tương tự tất cả các thành viên trong chi Thalasseus, nhàn mào bắt cá bằng cách lao xuống nước (thường là ở biển); chim trống tặng cá cho chim mái như một phần của nghi thức tỏ tình. [ Đọc tiếp ]

Tuần 8

Thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39) vào những năm 1920.

USS Arizona (BB-39) là một thiết giáp hạm thuộc lớp Pennsylvania được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của Hoa Kỳ vốn vừa gia nhập Liên bang, con tàu là chiếc thứ hai cũng là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm siêu-dreadnought Pennsylvania. Cho dù được đưa vào hoạt động vào năm 1916, nó vẫn ở lại lục địa Hoa Kỳ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ nhất; và không lâu sau khi cuộc xung đột kết thúc, nó là một trong những con tàu hộ tống đưa Tổng thống Woodrow Wilson sang tham dự Hội nghị hòa bình Paris. Arizona được gửi sang Thổ Nhĩ Kỳ khi cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ nổ ra để bảo vệ cho quyền lợi của Mỹ trong nhiều tháng. Nhiều năm sau, nó được chuyển sang Hạm đội Thái Bình Dương và ở lại đây cho đến hết quãng đời phục vụ. Ngoài một đợt hiện đại hóa đáng kể trong những năm 1929-1931,Arizona được thường xuyên sử dụng trong các cuộc tập trận huấn luyện giữa hai cuộc thế chiến, bao gồm cuộc tập trận lớn Vấn đề hạm đội hàng năm. Khi xảy ra cuộc động đất tại Long Beach, California vào năm 1933, thủy thủ đoàn của Arizona đã tham gia cứu giúp những người sống sót. Hai năm sau, con tàu tham gia những cảnh quay trong bộ phim Here Comes the Navy của đạo diễn James Cagney theo chủ đề những rắc rối tình cảm của một thủy thủ. Đến tháng 4 năm 1941, nó cùng với phần còn lại của Hạm đội Thái Bình Dương được chuyển từ California đến Trân Châu Cảng, Hawaii, như một động thái răn đe Đế quốc Nhật Bản. [ Đọc tiếp ]

Tuần 9

Franz Kafka

Franz Kafka (18831924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, được giới phê bình xem như một trong những tác giả có ảnh hưởng nhất thế kỉ 20. Kafka là một nhà hiện đại chủ nghĩa và chịu ảnh hưởng mạnh bởi những thể loại khác, bao gồm chủ nghĩa hiện sinh. Các tác phẩm của ông, như Hóa thân (Die Verwandlung), Vụ án (Der Process), và Lâu đài (Das Schloss) sử dụng những chủ đề và nguyên mẫu về sự ghẻ lạnh, sự tàn bạo về thể xác và tinh thần, mâu thuẫn cha-con, những nhân vật trong những cuộc truy tìm đáng sợ, và những sự biến đổi kỳ bí. Kafka sinh ra trong một gia đình Do Thái nói tiếng Đức trung lưu ở Praha, khi ấy là một phần của Đế quốc Áo-Hung, và được đào tạo để trở thành một luật sư. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học, ông đi làm ở một công ty bảo hiểm. Kafka bắt đầu viết những truyện ngắn trong những lúc rảnh rỗi, và trong suốt phần đời còn lại ông luôn phàn nàn về khoảng thời gian ít ỏi có thể cống hiến cho việc viết văn... [ Đọc tiếp ]

Tuần 10

Thiết giáp hạm SMS Markgraf

SMS Markgraf là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm König được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Markgraf được đặt lườn vào tháng 11 năm 1911 và được hạ thủy vào ngày 4 tháng 6 năm 1913. Nó được chính thức đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi Đức vào ngày 1 tháng 10 năm 1914, chỉ trên hai tháng sau khi chiến tranh nổ ra tại Châu Âu. Markgraf được trang bị mười khẩu pháo SK 30,5 xentimét (12,0 in) L/50 trên năm tháp pháo nòng đôi, và có thể di chuyển với tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h; 24 mph)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ]. Tên của nó được đặt nhằm tôn vinh Hoàng gia Baden. Cùng với ba chiếc tàu chị em cùng lớp König, Grosser KurfürstKronprinz, Markgraf đã tham gia hầu hết các hoạt động của hạm đội trong chiến tranh, kể cả trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916. Là chiếc thứ ba trong hàng chiến trận Đức trong trận này, con tàu đã chịu đựng hỏa lực ác liệt từ những thiết giáp hạm của Hạm đội Grand đối địch, bị bắn trúng năm quả đạn pháo hạng nặng, khiến 23 người thương vong. Nó cũng tham gia Chiến dịch Albion, cuộc chinh phục vịnh Riga do Nga chiếm giữ vào cuối năm 1917. Tuy nhiên, con tàu bị hư hại do một quả thủy lôi trên đường quay trở về Đức sau sự thành công của chiến dịch. [ Đọc tiếp ]

Tuần 11

Ó cá

Ó cá hay ưng biển (Pandion haliaetus) là một loài chim săn mồi kiếm ăn ban ngày. Loài chim này có kích thước lớn với chiều dài hơn 60 cm (24 in) và bề rộng sải cánh 180 cm (71 in). Đặc điểm dễ nhận biết là vùng lưng và phía sau đầu có màu nâu xám, cánh và xung quanh mắt có màu đen. Ó cá sống trong nhiều kiểu môi trường khác nhau, làm tổ ở bất cứ nơi nào gần vực nước cung cấp đủ thức ăn cho chúng. Nó được tìm thấy trên tất cả các lục địa trừ Nam Cực, riêng ở Nam Mỹ nó chỉ xuất hiện ở dạng di cư không sinh sản. Loài này được IUCN xếp vào nhóm ít quan tâm, chỉ tính riêng châu Phi thì số cá thể vào khoảng 460.000 con. Như tên gọi của nó, thức ăn của nó hầu như chỉ là . Nó có các đặc điểm vật lý và hành vi rất đặc biệt giúp chúng có thể săn và bắt con mồi. Do các đặc điểm độc đáo này, nên nó được phân loại vào một chi riêng, chi Pandion họ Pandionidae. Có 4 phân loài được công nhận trên thế giới. Mặc dù có xu hướng làm tổ gần các khu vực có nước, nhưng chúng không phải là một loài đại bàng biển. [ Đọc tiếp ]

Tuần 12

Thánh Giuse

Thánh Giuse là một vị thánh của Kitô giáo. Những ghi chép về Giuse xuất hiện đầu tiên trong các bản Phúc Âm LucaMatthew (còn những văn bản ra đời sớm của Phúc Âm như các thư Sứ đồ Phaolô hay Phúc Âm Máccô không đề cập đến người chồng của Maria). Tuy các thông tin đề cập trong hai sách trên không hoàn toàn thống nhất với nhau nhưng chúng cùng mô tả Giuse là chồng của Maria và cha về mặt pháp lí của Giêsu. Theo Phúc Âm Luca, Giuse là người thuộc chi họ Giuđa, hậu duệ đời thứ 40 của vua David, sinh trú tại Bêlem. Ông thuộc tầng lớp gia đình bình dân của xã hội thời đó. Ông đính hôn với Maria - một thiếu nữ quê ở Nazareth, cũng thuộc chi họ Giuđa. Tất cả các sách Tân Ước đều không thuật lại một lời nói nào của Giuse mà chỉ nhắc đến những hành động được cho là thi hành lời của Thiên Chúa phán qua sứ thần. Đứng trước sự việc Maria mang thai không phải bởi mình, Giuse đã không từ bỏ Maria và cái thai trong bụng bà mà ông muốn họ có một tư cách pháp lý theo luật Do Thái. [ Đọc tiếp ]

Tuần 13

Giám khảo The Voice Mỹ, Christina Aguilera

Christina María Aguilera (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1980) là một ca sĩ nhạc Pop/R&B, người viết bài hátdiễn viên người Mỹ. Cô cũng được nhắc đến trên sân khấu bằng cái tên Xtina và Baby Jane. Aguilera được xem là một biểu tượng văn hóa nổi bật trong cuối thập niên 1990 và trong thập niên 2000 nhờ những ấn hành nhạc cũng như phong cách ngoại hình luôn được đổi mới. Cô bắt đầu xuất hiện trước công chúng trong một số chương trình truyền hình bao gồm Star SearchThe Mickey Mouse Club. Sau khi thu âm bài hát "Reflection" cho bộ phim Mulan của hãng Walt Disney, cô có được hợp đồng với hãng RCA và bắt đầu nổi tiếng khi phát hành album mang chính tên cô. Các album tiếp theo, Mi Reflejo, My Kind of Christmas, Stripped, Back to Basics, BionicLotus đều cho thấy những chủ đề nhạc khác nhau của cô. Ngoài âm nhạc, Aguilera còn được các nhà phê bình khen ngợi việc diễn xuất của cô trong phim Burlesque (2010). Bên cạnh ngoại hình ưa nhìn, Aguilera còn có một chất giọng mạnh mẽ và cao vút. Điều này giúp Aguilera gặt hái các giải thưởng danh giá, gồm 4 giải Grammy và 1 giải Latin Grammy. [ Đọc tiếp ]

Tuần 14

Virus

Virus là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩnvi khuẩn cổ. Kể từ bài viết đầu tiên của Dmitri Ivanovsky năm 1892, mô tả về một dạng mầm bệnh không thuộc vi khuẩn mà lây nhiễm vào cây thuốc lá, và sự khám phá ra virus khảm thuốc lá của Martinus Beijerinck năm 1898, cho đến nay có khoảng 5.000 loại virus đã được miêu tả chi tiết, mặc dù vẫn còn có tới hàng triệu dạng virus khác nhau. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Khoa học nghiên cứu virus được biết với tên virus học (virology), một chuyên ngành phụ của vi sinh vật học. Các phần tử (hay hạt) virus (được gọi là virion) được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận: i) phần vật chất di truyền được tạo nên từ ADN hoặc ARN, là những phân tử dài có mang thông tin di truyền; ii) một lớp vỏ protein - được gọi với tên capsid - có chức năng bảo vệ hệ gen; và trong một số trường hợp còn có iii) một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài lớp vỏ protein khi virus ở ngoài tế bào. Hình dạng của virus có sự khác nhau, từ dạng xoắn ốc hay khối hai mươi mặt đều đơn giản cho tới những cấu trúc phức tạp hơn. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một vi khuẩn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 15

Hình vẽ Cây phát sinh của Ernst Haeckel khoảng năm 1879. Ngày nay các thông tin trên cây này không còn đúng nữa, nhưng nó vẫn là một minh họa cho sự phát triển các sinh vật từ một tổ tiên chung.

Trong sinh học, tiến hóa là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Các quá trình tiến hóa làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như ADNprotein. Sự sống trên Trái Đất khởi nguồn và sau đó tiến hóa từ một tổ tiên chung từ khoảng 3,8 tỷ năm trước. Sự tiến hóa thành loài mới và sự phân nhánh sự sống lặp lại có thể suy luận ra từ tập hợp những đặc tính sinh hóa và hình thái học chung, hay những chuỗi ADN chung. Những nét tương đồng này giống nhau hơn giữa những loài có tổ tiên chung gần gũi nhau hơn, và có thể dùng để tái dựng lịch sử tiến hóa từ những loài hiện tồn và những dấu vết hóa thạch. Hình ảnh về sự đa dạng sinh học trên hành tinh ngày nay hình thành từ cả sự hình thành loài và sự tuyệt chủng. Charles Darwin và Alfred Wallace là những người đầu tiên hệ thống hóa những luận cứ khoa học cho lý thuyết tiến hóa theo con đường chọn lọc tự nhiên. Tiến hóa do chọn lọc tự nhiên là một quá trình có thể suy ra từ ba thực kiện về các quần thể sinh học. [ Đọc tiếp ]

Tuần 16

Tàu chiến-tuần dương SMS Derfflinger

Lớp tàu chiến-tuần dương Derfflinger là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912–1913 như là sự đáp trả lại việc Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo ba chiếc tàu chiến-tuần dương mới thuộc lớp Lion vốn được hạ thủy vài năm trước đó. Lớp Moltke dẫn trước cùng với chiếc Seydlitz được nâng cấp đôi chút là tiêu biểu cho việc kết thúc sự tiến hóa thế hệ tàu chiến-tuần dương thứ nhất của Đức. Lớp Derfflinger tích hợp nhiều cải tiến đáng kể, bao gồm dàn pháo chính lớn hơn và được bố trí toàn bộ trên trục dọc nhằm loại bỏ việc tháp pháo giữa tàu có góc bắn giới hạn. Con tàu cũng lớn hơn đáng kể so với lớp dẫn trước; tuy nhiên, lớp Derfflinger lại sử dụng cùng một hệ thống động lực như lớp trước, và kết quả là với một trọng lượng choán nước lớn hơn, chúng chậm hơn đôi chút. Lớp tàu này bao gồm ba chiếc: Derfflinger, LützowHindenburg, cả ba đều đã hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Derfflinger được đưa vào hoạt động không lâu sau khi chiến tranh nổ ra, và đã hiện diện trong hầu hết các hoạt động hải quân tại Bắc Hải, bao gồm trận Dogger Bank và trận Jutland. Lützow được đưa vào hoạt động vào tháng 8 năm 1915. [ Đọc tiếp ]

Tuần 17

Quang cảnh thành phố Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ

Istanbul là thành phố lớn nhất, đồng thời là trái tim kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số 13,5 triệu người, nó hình thành một trong số các vùng đô thị lớn nhất châu Âu và xếp vào một trong những thành phố đông dân nhất thế giới xét về dân cư trong địa phận thành phố. Diện tích của thành phố là 5343 km², đây cũng là khuôn khổ của tỉnh Istanbul mà nó là thủ phủ. Istanbul là một thành phố liên lục địa, bắc ngang qua eo biển Bosphorus - một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới - ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nối biển Marmarabiển Đen. Trung tâm lịch sử và thương mại của Istanbul nằm ở phần thuộc châu Âu, và chỉ có một phần ba dân số cư trú ở phần thuộc châu Á. Kiến tạo trên mũi đất Sarayburnu khoảng năm 660 trước Công nguyên với tên gọi Byzantium, thành phố mà nay được gọi là Istanbul đã phát triển trở thành một trong những đô thành huy hoàng nhất trong lịch sử. Trong gần mười sáu thế kỉ sau sự tái thiết thành Constantinopolis năm 330 sau Công nguyên, nó từng là kinh đô của bốn đế quốc: Đế quốc La Mã (330-395); Đế quốc Byzantine (395-1204 và 1261-1453), Đế quốc Latin (1204-1261) và Đế quốc Ottoman (1453-1922). Thành phố đã đóng vai trò quan trọng trong sự lớn mạnh của Cơ đốc giáo dưới các thời đại La Mã và Byzantine, trước khi người Ottoman chinh phục vào năm 1453 và biến nó thành một pháo đài Hồi giáo, nơi trị vì của triều đại khalip cuối cùng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 18

Tranh mô tả những tù bình người Hoa bị sát hại.

Cuộc thảm sát Batavia năm 1740 là một cuộc tàn sát đối với người Hoa tại thành phố cảng Batavia (nay là Jakarta) tại Đông Ấn Hà Lan. Bạo lực trong thành phố kéo dài từ ngày 09 tháng 10 năm 1740 cho đến ngày 22 tháng 10, những cuộc đụng độ nhỏ bên ngoài các thành lũy tiếp tục cho đến cuối tháng 11 năm đó. Đây là sự kiện phân biệt đối xử đối với người gốc Hoa ở Indonesia được ghi nhận sớm nhất. Các nhà sử học đã ước tính rằng ít nhất 10.000 người Hoa đã bị tàn sát, số người sống sót là không chắc chắn, mặc dù con số này được dự đoán nằm trong khoảng từ 600 đến 3.000 người. Trong tháng 9 năm 1740, tình trạng bất ổn bắt đầu nổi lên từ các cụm dân cư gốc Hoa, chúng được châm ngòi từ hoạt động đàn áp của chính phủ và thu nhập giảm do giá đường sụt giảm trước khi diễn ra vụ thảm sát. Để đáp lại, tại một cuộc họp của Hội đồng Ấn (Raad van indie), cơ quan quản lý của Công ty Đông Ấn Hà Lan, Toàn quyền Adriaan Valckenier tuyên bố rằng bất kỳ cuộc nổi dậy sẽ bị đáp trả bằng vũ lực trí mạng. Nghị quyết của ông có hiệu lực từ ngày 07 tháng 10 sau khi hàng trăm người Hoa, nhiều người trong số họ là các công nhân máy mía đường, đã giết chết 50 binh sĩ Hà Lan. Người Hà Lan đã phái quân đội đến tịch thu tất cả các loại vũ khí của người Hoa và đặt cộng đồng người Hoa dưới lệnh giới nghiêm. [ Đọc tiếp ]

Tuần 19

Frank Ocean tháng 4 năm 2012

Channel Orangealbum phòng thu đầu tay của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Frank Ocean, phát hành ngày 10 tháng 7 năm 2012 bởi Def Jam Recordings. Sau khi ra mắt mixtape năm 2011 Nostalgia, Ultra, Ocean bắt đầu bắt tay sáng tác album với người đồng sự Malay, người đã giúp anh sản xuất những bản thu của mixtape tại phòng thu EastWest Studio ở Hollywood. Ocean đã thoát khỏi sự phụ thuộc vào các đoạn nhạc mẫu như khi làm mixtape, và muốn tiếp cận những âm thanh và cấu trúc bài hát theo cách hoàn toàn khác khi thực hiện Channel Orange. Anh đã đặt tên album như một sự ám chỉ tới hiện tượng thần kinh cảm giác kèm tự vị - màu sắc và sắc màu mà anh cảm nhận vào mùa hè khi anh lần đầu biết yêu. Là một album R&B và neo soul, Channel Orange có phong cách âm nhạc khá bất thường, với những bài hát lấy cảm hứng từ các cảnh lướt qua trong phim, và chịu ảnh hưởng từ các thể loại electro-funk, pop-soul, jazz-funk, và âm nhạc ảo giác. Các bài hát trong album có đặc trưng là những giai điệu khác thường, cách phối khí theo không gian, những tiếng phách tốc độ trung bình, và sử dụng những nhạc cụ như đàn organ điện tử, bộ gõ câm, và bộ tổng hợp chuyển thế. [ Đọc tiếp ]

Tuần 20

lớn
lớn

Georg Cantor (3 tháng 3 năm 18456 tháng 1 năm 1918) là một nhà toán học người Đức, được biết đến nhiều nhất với tư cách cha đẻ của lý thuyết tập hợp, một lý thuyết đã trở thành một lý thuyết nền tảng trong toán học. Cantor đã cho thấy tầm quan trọng của quan hệ song ánh giữa các phần tử của hai tập hợp, định nghĩa các tập vô hạn và các tập sắp tốt, và chứng minh rằng các số thực là "đông đúc" hơn các số tự nhiên. Trên thực tế, phương pháp chứng minh định lý này của Cantor ngụ ý sự tồn tại "vô hạn các tập vô hạn". Ông định nghĩa bản số và số thứ tự và phép tính về chúng. Sự nghiệp toán học vĩ đại của ông nhận được sự quan tâm lớn về mặt triết học, nhờ đó khiến ông càng được biết đến nhiều hơn. Lý thuyết của Cantor về số siêu hạn ban đầu bị xem là phản trực giác-thậm chí gây sốc-tới mức nó vấp phải sự chống đối của những nhà toán học lừng lẫy đương thời như Leopold KroneckerHenri Poincaré và sau đó là Hermann Weyl và L. E. J. Brouwer, trong khi Ludwig Wittgenstein đưa ra những phản đối về triết học. Một số nhà thần học Thiên Chúa giáo xem công trình của Cantor là một thách thức đối với tính độc nhất hiện hữu của sự vô hạn tuyệt đối trong bản thể Chúa Trời, một điều mà Cantor phản đối mãnh liệt.(xem tiếp...)

Tuần 21

Một con cá mập thiên thần (Squatina squatina) tại quần đảo Canary.

Squatina squatina là một loài cá mập thiên thần trong họ Squatinidae phổ biến rộng rãi ở vùng nước ven biển phía Đông bắc Đại Tây Dương. Đây là loài ngụy trang tốt ở khu vực đáy đại dương, với cơ thể phẳng, mở rộng ở phần vây bụng và vây ngực khiến chúng có bề ngoài giống với một con cá đuối. Squatina squatina có cơ thể rộng, râu hình nón, lưng có ít gai, cơ thể có màu xám hoặc nâu nhạt ở lưng với một mô hình của rất nhiều chấm sáng nhỏ li ti. Một con trưởng thành có thể dài tới 2,4 m (7,9 ft). Giống như các loài khác trong họ, Squatina squatinađộng vật ăn thịt, săn mồi vào ban đêm. Chúng vùi mình trong lớp trầm tích bùn và chờ đợi con mồi đi qua. Thức ăn chủ yếu là các sinh vật đáy bao gồm động vật không xương sống. Con cái đẻ 2 năm một lần, mỗi lần sinh từ 7 - 25 con cá con. Squatina squatina thường ít gây nguy hiểm cho con người, nhưng nếu bị khiêu khích chúng có thể cắn và làm bị thương. Loài cá này bị đánh bắt làm thức ăn từ thời Hy Lạp cổ đại, và hiện nay được bán trên thị trường châu Âu dưới tên "monkfish". Kể từ giữa thế kỷ 20, căng thẳng thương mại trong đánh bắt cá đã khiến số lượng loài bị giảm nhanh chóng, một số địa phương loài này gần như đã tuyệt chủng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 22

Đế quốc vào lúc đỉnh điểm

Đế quốc Đông La Mã là một đế quốc tồn tại từ năm 330 đến năm 1453, đóng đô ở Constantinopolis. Trước khi thành lập, phạm vi của Đế quốc Đông La Mã trước đây nằm trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã. Năm 330, khi Constantinus I, con của hoàng đế Constantius, nắm quyền trị vì và dời đô từ thành La Mã về Constantinopolis, được xem là thời điểm thành lập đế quốc Đông La Mã. Khi ông qua đời, đế quốc bị các con trai ông phân chia thành Đông và Tây. Sau khi vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc phía tây là Romulus Augustus bị một thủ lĩnh người Giéc-man hạ bệ, đế quốc Tây La Mã sụp đổ. Nhưng đế quốc phía đông vẫn tiếp tục phát triển, trở thành một cường quốc có vai trò quan trọng ở châu Âu và được xem là một trong những trung tâm đạo Ki-tô lúc bấy giờ. Đế quốc Đông La Mã đã tồn tại hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ 4 cho đến năm 1453. Trong thời gian tồn tại của nó, Đông La Mã vẫn là một trong những cường quốc kinh tế, văn hóa, và quân sự lớn mạnh nhất ở châu Âu, bất chấp những thất bại và mất mát lãnh thổ, đặc biệt là trong cuộc Chiến tranh La Mã-Ba TưChiến tranh Ả Rập-Đông La Mã. Không thấy một tư liệu chính xác nào về sự khởi đầu của đế quốc Đông La Mã. Một vài ý kiến cho rằng đế quốc này được thành lập dưới thời cai trị của Hoàng đế Diocletianus (284–305), người đã chia đế quốc La Mã thành hai nửa đông và tây. [ Đọc tiếp ]

Tuần 23

Christina Aguilera năm 2003.

Strippedalbum phòng thu thứ tư trong sự nghiệp âm nhạc của nữ ca sĩ thu âm người Mỹ Christina Aguilera, được hãng đĩa RCA Records phát hành vào ngày 26 tháng 10 năm 2002. Khác với album Christina Aguilera mang thể loại bubblegum pop, Stripped là sự kết hợp các thể loại hoàn toàn mới bao gồm R&B, phúc âm, soul, pop rock, Latinhip hop. Album được chính cô và các nhà sản xuất lâu năm khác sản xuất, gồm Scott Storch và Linda Perry. Trong suốt quá trình quảng bá cho album, cô đã sử dụng nghệ danh "Xtina" cùng những video khêu gợi đã bị cấm và bị chỉ trích nặng nề tại Mỹ, trong đó có video âm nhạc của đĩa đơn "Dirrty". Mặc dù vậy, album vẫn được phát hành với tư cách là "album lành mạnh" và không bị mang biển "Khuyến cáo cho cha mẹ" ("Parental Advisory"). Từ một hình tượng "Công chúa nhạc Pop" trước kia, Stripped đã làm cho Aguilera trở thành một "Biểu tượng sex". Stripped ra mắt tại vị trí á quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 và tiêu thụ được 330.000 bản trong tuần đầu tiên. Tới nay, album đã tiêu thụ được 4,3 triệu bản tại Mỹ và 12 triệu bản trên toàn thế giới. [ Đọc tiếp ]

Tuần 24

Đài tưởng niệm Katyn-Kharkiv-Mednoye
Đài tưởng niệm Katyn-Kharkiv-Mednoye

Thảm sát Katyn là một cuộc thảm sát những người quốc gia Ba Lan do Bộ Dân ủy Nội vụ, cảnh sát mật Liên Xô, thực hiện vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940. Vụ thảm sát khởi đầu từ đề xuất của L. P. Beriya hành quyết tất cả các sỹ quan Ba Lan, ngày 5 tháng 3 năm 1940. Tài liệu chính thức này đã được Bộ Chính trị, gồm cả lãnh đạo I. V. Stalin, ký và đóng dấu. Số lượng nạn nhân được ước tính khoảng 22.000 người, với con số thấp là 21.768 người. Các nạn nhân bị giết hại tại Rừng Katyn Nga, các trại tù KalininKharkiv và những nơi khác. Trong tổng số người bị giết hại, khoảng 8.000 là các sỹ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc xâm chiếm Ba Lan của Liên Xô năm 1939, 6.000 người khác là các sỹ quan cảnh sát, số còn lại là những người thuộc giới trí thức Ba Lan bị bắt giữ vì bị coi là các "nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sư, viên chức và thầy tu." Các vụ hành quyết tù binh chiến tranh cùng thời điểm. Các vụ hành quyết khác xảy ra ở khá xa tại các trại StarobelskOstashkov, tại trụ sở NKVD ở Smolensk, và các nhà tù tại Kalinin (Tver), Kharkiv, Moscow, và các thành phố Liên xô khác. Các vụ hành quyết khác diễn ra ở nhiều địa điểm tại Belarus và Tây Ukraina, dựa trên các danh sách đặc biệt về tù binh Ba Lan, do NKVD chuẩn bị đặc biệt cho các vùng đó. [ Đọc tiếp ]

Tuần 25

Reagan năm 1981.

Ronald Wilson Reagan (6 tháng 2 năm 1911 – 5 tháng 6 năm 2004) là tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989). Trước đó, ông là thống đốc thứ 33 của California (1967–1975), và từng là diễn viên truyền hình, truyền thanh và điện ảnh. Ông sinh tại thành phố Tampico, Illinois, và lớn lên ở Dixon. Ông học Đại học Eureka và có bằng cử nhân về kinh tế và xã hội học. Sau khi tốt nghiệp, đầu tiên ông chuyển đến tiểu bang Iowa để làm việc trong vai trò phát thanh viên, sau đó vào năm 1937, ông đến thành phố Los Angeles nơi ông khởi nghiệp trong vai trò diễn viên điện ảnh và sau đó là diễn viên truyền hình. Một số bộ phim nổi bật nhất của ông gồm có Knute Rockne, All American (1940), Kings Row (1942), và Bedtime for Bonzo (1951). Reagan làm chủ tịch liên đoàn lao động Screen Actors Guild và sau đó là người phát ngôn cho công ty General Electric (GE). Ông bắt đầu tham gia chính trị trong thời kỳ làm việc cho công ty GE. Ban đầu ông là đảng viên Dân chủ. Thiên hướng của ông bắt đầu chuyển đổi sang cánh hữu vào thập niên 1950 và sau đó ông đổi sang đảng Cộng hòa vào năm 1962. [ Đọc tiếp ]

Tuần 26

Tàu chiến-tuần dương HMS Indefatigable

HMS Indefatigable là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp Indefatigable, một phiên bản mở rộng so với lớp Invincible dẫn trước, được cải thiện cách sắp xếp bảo vệ và kéo dài thân tàu để hai tháp pháo giữa tàu có thể bắn được cả hai bên mạn. Indefatigable được đặt lườn vào năm 1909 và đưa ra hoạt động vào năm 1911. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất mở màn, Indefatigable phục vụ cùng với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 tại Địa Trung Hải, nơi nó săn đuổi không thành công tàu chiến-tuần dương Goebentàu tuần dương hạng nhẹ Breslau của Hải quân Đế quốc Đức khi chúng thoát về hướng Đế quốc Ottoman. Con tàu đã bắn phá các pháo đài Thổ Nhĩ Kỳ phòng thủ eo biển Dardanelles vào ngày 3 tháng 11 năm 1914, rồi sau một đợt tái trang bị tại Malta, đã quay trở về Anh vào tháng 2 năm 1915 nơi nó tái gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2. Indefatigable bị đánh chìm vào ngày 31 tháng 5 năm 1916 trong trận Jutland, trận hải chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh. Trong thành phần Hạm đội Tàu chiến-Tuần dương dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Sir David Beatty, nó bị bắn trúng nhiều phát ngay những phút đầu tiên của đợt "Chạy về phía Nam", giai đoạn mở đầu của trận chiến. Những phát đạn pháo từ tàu chiến-tuần dương Đức Von der Tann đã gây một vụ nổ làm thủng một lổ lớn trên lườn tàu, và một vụ nổ thứ hai làm tung những mảnh lớn của con tàu lên cao 200 ft (61 m). [ Đọc tiếp ]

Tuần 27

Red Dead Redemptiontrò chơi điện tử thuộc thể loại hành động-phiêu lưu góc nhìn người thứ ba, được Rockstar San Diego sản xuất và Rockstar Games phát hành cho PlayStation 3Xbox 360 vào ngày 18 tháng 5 năm 2010. Về lý thuyết, đây là bản kế nhiệm của Red Dead Revolver. Hầu hết nội dung trong game diễn ra trong năm 1911, xoay quanh nhân vật chính John Marston, một người từng sống ngoài vòng pháp luật, nay đã hoàn lương. Vợ và con trai của anh đã bị chính quyền đưa đi nơi khác với mục đích lợi dụng Marston. Không còn lựa chọn nào khác, anh phải đưa ba tên đồng phạm cũ của mình ra công lý. Sau khi được phát hành, một vài bản Nội dung tải về được (DLC) đã được nhà sản xuất tung ra. Red Dead Redemption: Undead Nightmare, một tựa game được phát triển độc lập, cho người chơi một trải nghiệm mới khi John Marston phải đi tìm liều thuốc chữa trị cho những người bị hóa thành xác sống đã lan tràn khắp miền Viễn Tây. Game of the Year Edition phát hành ngày 11 tháng 10 cùng năm, chứa đựng toàn bộ những bản DLC. [ Đọc tiếp ]

Tuần 28

Lionel Messi

Lionel Messi (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Argentina hiện đang chơi cho F.C. Barcelonađội tuyển bóng đá quốc gia Argentina. Được đánh giá là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới ở thời đại của anh và thường được đánh giá là cầu thủ hay nhất thế giới, anh cũng là chủ nhân của nhiều danh hiệu cao quý như Quả bóng vàng Châu Âu 2009, Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2009 của FIFA, Quả bóng vàng FIFA 2010, Quả bóng vàng FIFA 2011 và 2012. Lối chơi của anh được so sánh với huyền thoại Diego Maradona, người tự coi Messi là “truyền nhân” của mình. Messi bắt đầu chơi bóng từ khi còn nhỏ và tài năng của anh đã được phát hiện bởi câu lạc bộ Barcelona. Anh rời đội bóng quê nhà Newell's Old Boys năm 2000 và cùng cả gia đình chuyển tới châu Âu sau khi Barcelona đề nghị hỗ trợ anh chi phí điều trị chứng thiếu hụt hormone tăng trưởng. Có trận ra mắt vào mùa giải 2004–05, anh phá vỡ kỉ lục của La Liga cho cầu thủ trẻ nhất ra sân, và cũng là cầu thủ trẻ nhất ghi bàn ở giải này. Những danh hiệu đã tới với Barca ngay trong mùa đầu tiên của Messi đó là chức vô địch La Liga, và họ giành cú đúp khi vô địch cả La Liga và cúp C1 vào mùa giải 2006. 2006–07 là mùa giải đột phá của anh: trở thành cầu thủ quan trọng trong đội hình I, ghi một cú hat-trick trong trận El Clásico và kết thúc mùa giải với 14 bàn trong 26 trận. [ Đọc tiếp ]

Tuần 29

Thiết giáp hạm Haruna

Haruna, tên được đặt theo đỉnh núi Haruna, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai. Được thiết kế bởi kỹ sư hàng hải người Anh George Thurston, nó là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ tư cũng là chiếc cuối cùng của lớp Kongō, là một trong những tàu chiến được trang bị mạnh mẽ nhất đối với hải quân mọi nước từng được chế tạo. Được đặt lườn vào năm 1912 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe, Haruna được chính thức đưa ra hoạt động vào năm 1915, cùng ngày với con tàu chị em Kirishima. Haruna đã tuần tra dọc theo bờ biển Trung Quốc trong Thế Chiến I. Trong một cuộc thực tập tác xạ vào năm 1920, một vụ nổ đã phá hủy một khẩu pháo của nó, làm hư hại tháp pháo và khiến bảy người thiệt mạng. Trong suốt quá trình phục vụ, Haruna đã hai lần được cải tạo lớn. Bắt đầu từ năm 1926, Hải quân Đế quốc Nhật Bản tái cấu trúc nó trở thành một thiết giáp hạm, tăng cường vỏ giáp và cải thiện khả năng động lực và tốc độ. Đến năm 1933, cấu trúc thượng tầng của nó được chế tạo lại toàn bộ, tăng thêm tốc độ, và được trang bị máy phóng dành cho thủy phi cơ. Giờ đây có tốc độ đủ nhanh để tháp tùng hạm đội tàu sân bay đang lớn mạnh, Haruna được xếp lại lớp thành một thiết giáp hạm nhanh. Trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, Haruna đã vận chuyển lực lượng Lục quân Nhật Bản sang lục địa Trung Quốc trước khi được tái bố trí về Đội thiết giáp hạm 3 vào năm 1941. [ Đọc tiếp ]

Tuần 30

Qua khe núi nằm ở chiến trường Yarmouk, hình ảnh này được chụp khoảng 8 dặm, từ Jordan

Trận Yarmouk năm 636 sau CN là một trận đánh lớn giữa quân đội Hồi giáo của quốc vương Ả Rập Hồi giáo Rashidun với quân đội của Đế quốc Đông La Mã. Trận chiến bao gồm một loạt các cuộc đụng độ kéo dài sáu ngày trong tháng 8 năm 636 ở gần sông Yarmouk, đây là biên giới ngày nay giữa SyriaJordan, phía đông nam của biển Galilee. Kết quả của trận đánh là một chiến thắng hoàn toàn của người Hồi giáo và chấm dứt vĩnh viễn sự cai trị của Đế quốc Đông La Mã ở phía nam vùng Anatolia. Trận Yarmouk được coi là một trong những trận đánh quyết định nhất trong lịch sử quân sự và nó đánh dấu làn sóng đầu tiên của cuộc chinh phục của người Hồi giáo sau cái chết của nhà tiên tri Muhammad, nó cũng báo hiệu những bước tiến nhanh chóng của người Hồi giáo vào quốc gia vùng cận động theo Kitô giáo. Với mục đích chặn đứng bước tiến của người Hồi giáo và thu hồi các vùng lãnh thổ đã bị mất, Hoàng đế Heraclius đã gửi một đoàn quân chinh phạt lớn đến vùng Cận đông vào tháng 5 năm 636. Khi quân đội La Mã đến gần, người Hồi giáo rút lui khỏi Syria và tập hợp lại tất cả các lực lượng của họ ở vùng đồng bằng sông Yarmouk, sau khi được tăng cường quân tiếp viện họ đã đánh bại quân đội có ưu thế hơn của người La Mã. [ Đọc tiếp ]

Tuần 31

Mô phỏng lỗ đen uốn cong không thời gian quanh nó, xuất hiện nhiều ảnh của cùng một sao cũng như vành Einstein.

Lỗ đen là một vùng trong không-thời giantrường hấp dẫn ngăn cản mọi thứ, bao gồm cả ánh sáng cũng không thể thoát ra. Thuyết tương đối rộng tiên đoán một lượng vật chất với khối lượng đủ lớn nằm trong phạm vi đủ nhỏ sẽ làm biến dạng không thời gian để trở thành lỗ đen. Xung quanh lỗ đen là một mặt xác định bởi phương trình toán học gọi là chân trời sự kiện, mà tại đó khi vật chất vượt qua nó sẽ không thể thoát ra ngoài lỗ đen được. Lỗ đen gọi là "đen" bởi vì nó hấp thụ mọi bức xạ và vật chất hút qua chân trời sự kiện, giống như một vật đen tuyệt đối trong nhiệt động lực học; nó cũng không phải là một loại "lỗ" hay "hố" nào mà là vùng không thời gian không để cho một thứ gì thoát ra. Lý thuyết trường lượng tử trong không thời gian cong tiên đoán tại chân trời sự kiện lỗ đen có phát ra bức xạ giống như vật đen có nhiệt độ nhất định phát ra bức xạ nhiệt. Nhiệt độ này tỉ lệ nghịch với khối lượng của lỗ đen, khiến cho rất khó quan sát được bức xạ này đối với các lỗ đen có khối lượng sao hay trung bình. Trong thế kỷ 18, John Michell và Pierre-Simon Laplace từng xét đến vật thể có trường hấp dẫn mạnh mô tả bởi cơ học cổ điển khiến cho ánh sáng không thể thoát ra. [ Đọc tiếp ]

Tuần 32

Tàu chiến-tuần dương HMS Princess Royal

HMS Princess Royal là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp Lion bao gồm hai chiếc, nó được chế tạo nhằm vượt trội hơn so với lớp tàu chiến-tuần dương Moltke của Hải quân Đức, được cải thiện đáng kể về tốc độ, vũ khí và vỏ giáp so với lớp Indefatigable dẫn trước. Được đặt lườn năm 1912 và đi vào hoạt động năm 1913, Princess Royal đã phục vụ trong Trận Heligoland Bight một tháng sau khi chiến tranh bắt đầu. Sau đó nó được gửi đến biển Caribbe phòng ngừa Hải đội Đông Á Đức Quốc sử dụng kênh đào Panama. Sau khi Hải đội Đông Á bị đánh chìm trong Trận chiến quần đảo Falkland vào tháng 12 năm 1914, Princess Royal gia nhập trở lại Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1. Trong Trận Dogger Bank, Princess Royal chỉ ghi được một vài phát trúng, mặc dù một quả đạn pháo đã phá hỏng chiếc tàu tuần dương bọc thép Đức Blücher. Không lâu sau đó, nó trở thành soái hạm của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Osmond Brock. Princess Royal bị hư hại trung bình trong trận Jutland và phải mất một tháng rưỡi sửa chữa. [ Đọc tiếp ]

Tuần 33

Trận Agincourt, hình minh họa của thế kỷ 15

Trận Agincourt là một chiến thắng lớn trong Chiến tranh Trăm Năm của quân Anh trước quân Pháp đông đảo hơn nhiều về mặt số lượng. Trận chiến diễn ra vào ngày thứ sáu 25 tháng 10 năm 1415 (ngày Thánh Crispin) tại một địa điểm gần Azincourt ngày nay, thuộc miền Bắc Pháp. Đây là một toàn thắng của vua Henry V nước Anh và có ý nghĩa như một đòn giáng sấm sét của ông vào quân Pháp, bất chấp ưu thế to lớn về quân số của Pháp. Không những gặp may mắn, mà lòng can trường của ông đã truyền cảm ba quân chiến đấu và thắng trận lừng danh này. Với liên tiếp hai đợt tấn công của quân Pháp bị phá tan mà quân Anh chỉ có chút ít thương vong, trận Agincourt trở thành một trong những cuộc ác chiến "một chiều" nhất trong lịch sử nhân loại, một vụ tàn sát thê lương tầng lớp Hiệp sĩ phong kiến Pháp Được xem là cuộc đại thắng cuối cùng của quân Anh với cung dài trên đất Pháp, toàn thắng tại Agincourt cũng được xem là một chiến tích đầu tay của ông vua cầm binh Henry V. Trong văn học - lịch sử nước Anh, thắng lợi to tát của ông trong trận này - là tuyệt đỉnh cho cuộc tiến công nước Pháp của ông - đã trở nên bất hủ, góp phần làm nên niềm tự hào dân tộc Anh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 34

Sao Thổhành tinh thứ sáu theo khoảng cách trung bình tính từ Mặt Trời và là hành tinh lớn thứ hai về đường kính cũng như khối lượng, sau Sao Mộc trong Hệ Mặt Trời. Tên tiếng Anh của hành tinh mang tên thần Saturn trong thần thoại La Mã, ký hiệu thiên văn của hành tinh là (♄) thể hiện cái liềm của thần. Sao Thổ là hành tinh khí khổng lồ với bán kính trung bình bằng 9 lần của Trái Đất. Tuy khối lượng của hành tinh cao gấp 95 lần khối lượng của Trái Đất nhưng với thể tích lớn hơn 763 lần, khối lượng riêng trung bình của Sao Thổ chỉ bằng một phần tám so với của Trái Đất. Cấu trúc bên trong của Sao Thổ có lẽ bao gồm một lõi sắt, nikelđá (hợp chất silic và ôxy), bao quanh bởi một lớp dày hiđrô kim loại, một lớp trung gian giữa hiđrô lỏng với heli lỏng và bầu khí quyển bên trên cùng. Lớp khí quyển bên trên cùng hành tinh có những màu đồng nhất và hiện lên dường như yên ả so với bầu khí quyển hỗn loạn của Sao Mộc, mặc dù nó cũng có những cơn bão mạnh. Tốc độ gió trên Sao Thổ có thể đạt tới 1.800 km/h, nhanh hơn trên Sao Mộc, nhưng không nhanh bằng tốc độ gió trên Sao Hải Vương. Sao Thổ có một hệ thống vành đai bao gồm chín vành chính liên tục và ba cung đứt đoạn, chúng chứa chủ yếu hạt băng với lượng nhỏ bụi và đá. Sao Thổ có 62 vệ tinh tự nhiên đã biết; trong đó 53 vệ tinh đã được đặt tên. [ Đọc tiếp ]

Tuần 35

Tàu sân bay Kaga sau khi được hiện đại hóa, với những ống khói đặc trưng hướng xuống phía dưới.

Kaga là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân Nhật được đưa vào hoạt động, với tên được đặt theo tỉnh Kaga cũ trước đây, nay thuộc tỉnh Ishikawa. Thoạt tiên được dự định như một trong hai thiết giáp hạm nhanh thuộc lớp Tosa, Kaga được cải biến thành một tàu sân bay theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington để thay thế cho chiếc tàu chiến-tuần dương Amagi vốn đã bị hư hại trong trận động đất Kantō 1923. Kaga được tái cấu trúc vào những năm 19331935 nhằm gia tăng tốc độ, cải tiến hệ thống thoát khí và nâng cấp sàn cất-hạ cánh để mang được những máy bay hiện đại lớn và nặng hơn. Kaga có vai trò nổi bật trong việc phát triển học thuyết lực lượng tấn công tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, trong đó tập hợp các tàu sân bay lại để có một sức mạnh không lực tập trung. Là một khái niệm chiến lược mang tính cách mạng vào lúc đó, việc triển khai học thuyết này đã giúp Nhật Bản đạt được những mục tiêu chiến lược trong sáu tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Máy bay của Kaga thoạt tiên đã hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc trong Sự kiện Thượng Hải năm 1932, rồi tham gia cuộc Chiến tranh Trung-Nhật vào cuối những năm 1930. [ Đọc tiếp ]

Tuần 36

Một vùng H II là một đám mây khíplasma lớn, sáng với mật độ tập trung thấp trong đó đang diễn ra các hoạt động hình thành sao. Các ngôi sao khổng lồ xanh, nóng và trẻ trong vùng này phát ra một lượng lớn các tia cực tím, làm ion hóa và nung nóng các đám khí bao quanh chúng. Vùng H II-đôi khi có kích thước lớn đến hàng trăm năm ánh sáng-thường kết hợp với các đám mây phân tử khổng lồ nơi sẽ hình thành hệ thống ngôi sao, và từ đó các ngôi sao sẽ lại đóng góp vật chất vào vùng này. Vùng H II đầu tiên được khám phá ra là Tinh vân Lạp Hộ do Nicolas-Claude Fabri de Peiresc phát hiện vào năm 1610. Do chứa chủ yếu các nguyên tử hidro bị ion hóa nên các nhà thiên văn gọi chúng là vùng H II (vùng H I chứa chủ yếu các nguyên tử hidro trung hòa điện tích và các phân tử hidro H2). [ Đọc tiếp ]

Tuần 37

San Francisco là một trung tâm văn hóa và tài chính hàng đầu của Bắc Californiavùng vịnh San Francisco. Là quận-thành phố thống nhất duy nhất của tiểu bang California, San Francisco chiếm một diện tích khoảng 46,9 dặm vuông Anh (121 km2) trên đầu phía bắc của bán đảo San Francisco. Mật độ dân số của nó là khoảng 17.620 người trên một dặm vuông Anh (6.803 người trên một km²). Đây là thành phố lớn có mật độ dân cư đông nhất trong tiểu bang California và là thành phố lớn có mật độ dân số đông thứ hai tại Hoa Kỳ, chỉ sau Thành phố New York. San Francisco là thành phố đông dân thứ tư tại California, sau Los Angeles, San DiegoSan Jose, và đứng thứ 14 đông dân nhất tại Hoa Kỳ theo ước tính điều tra dân số năm 2012 là 825.863. Thành phố cũng là một trung tâm văn hóa và tài chính của vùng thống kê kết hợp San Jose-San Francisco-Oakland với tổng dân số 8,4 triệu dân. San Francisco được xếp hạng sáu trong số những điểm đến du lịch tại Hoa Kỳ vào năm 2011. Thành phố nổi tiếng với mùa hè mát mẻ, sương mù, đồi dốc trùng điệp, kiến trúc đa dạng, và những danh lam thắng cảnh trong đó có cầu Cổng Vàng, xe chạy bằng dây cáp, nhà tù xưa trên đảo Alcatraz, và khu Phố Tàu. Thành phố cũng là một trung tâm tài chính và ngân hàng chính yếu. [ Đọc tiếp ]

Tuần 38

SMS Grosser Kurfürst là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm König được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Grosser Kurfürst (còn có thể viết là Großer Kurfürst) được đặt lườn vào ngày tháng 10 năm 1911 và được hạ thủy vào ngày 5 tháng 5 năm 1913. Nó được chính thức đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi Đức vào ngày 30 tháng 7 năm 1914, chỉ ít ngày trước khi chiến tranh nổ ra giữa nước Đức và Anh Quốc. Tên của nó mang nghĩa “Đại Tuyển hầu”, được đặt để ám chỉ vị "Đại Tuyển hầu" xứ Brandenburg kiêm Quận công xứ Phổ là Friedrich Wilhelm I hồi thế kỷ 17. Grosser Kurfürst được trang bị mười khẩu pháo SK 30,5 xentimét (12,0 in) L/50 trên năm tháp pháo nòng đôi, và có thể di chuyển với tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h; 24 mph)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ]. Cùng với ba chiếc tàu chị em cùng lớp König, MarkgrafKronprinz, Grosser Kurfürst đã tham gia hầu hết các hoạt động của hạm đội trong chiến tranh, kể cả trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916. Con tàu đã chịu đựng hỏa lực ác liệt trong trận này từ những thiết giáp hạm Anh Quốc, nhưng không bị hại hại gì nghiêm trọng. Nó cũng tham gia bắn phá các vị trí của Nga trong Chiến dịch Albion vào tháng 9tháng 10 năm 1917. [ Đọc tiếp ]

Tuần 39

Sao Thủy là hành tinh nhỏ nhất và gần Mặt Trời nhất trong tám hành tinh thuộc Hệ Mặt Trời, với chu kỳ quỹ đạo bằng 88 ngày Trái Đất. Nhìn từ Trái Đất, hành tinh hiện lên với chu kỳ giao hội trên quỹ đạo bằng xấp xỉ 116 ngày, và nhanh hơn hẳn những hành tinh khác. Tốc độ chuyển động nhanh này đã khiến người La Mã đặt tên hành tinh là Mercurius, vị thần liên lạc và đưa tin một cách nhanh chóng. Trong thần thoại Hy Lạp tên của vị thần này là Hermes (Ερμής). Tên tiếng Việt của hành tinh này dựa theo tên do Trung Quốc đặt, chọn theo hành thủy trong ngũ hành. Do hành tinh hầu như không có khí quyển để giữ lại nhiệt lượng, bề mặt Sao Thủy trải qua sự biến đổi nhiệt độ lớn nhất trong số các hành tinh, thay đổi từ 100 K (−173 °C; −280 °F) vào ban đêm tới 700 K (427 °C; 800 °F) vào ban ngày. Trục quay của Sao Thủy có độ nghiêng nhỏ nhất trong Hệ Mặt Trời (khoảng 130 độ), nhưng hành tinh lại có độ lệch tâm quỹ đạo lớn nhất. Tại viễn điểm quỹ đạo, Sao Thủy ở cách xa Mặt Trời hơn 1,5 so với khi hành tinh ở cận điểm quỹ đạo. Bề mặt hành tinh có rất nhiều hố va chạm nhìn trông giống như bề mặt của Mặt Trăng, và hành tinh không còn hoạt động địa chất trong hàng tỷ năm trước. [ Đọc tiếp ]

Tuần 40

Basiliscus (mất 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ dòng họ Leo, bắt đầu nắm quyền hành khi tiến hành cuộc nổi dậy buộc Hoàng đế Zeno phải trốn khỏi Constantinopolis. Basiliscus là em trai Hoàng hậu Aelia Verina, vợ của Hoàng đế Leo I (457474). Mối quan hệ của ông với Hoàng đế cho phép ông theo đuổi binh nghiệp, sau khi đạt được những thành công nhỏ ban đầu, thì trong cuộc xâm chiếm lãnh thổ rợ Vandalchâu Phi của người La Mã dưới quyền chỉ huy của ông đã thất bại thảm hại vào năm 468, được coi là một trong những chiến dịch quân sự lớn nhất cuối thời cổ đại. Basiliscus đã thành công trong việc chiếm đoạt quyền lực vào năm 475, lợi dụng sự bất mãn của dân chúng với Hoàng đế Zeno vốn có gốc gác “mọi rợ” kế thừa tiên đế Leo và kết quả là khiến cho phe cánh Thái hậu Verina tiến hành đảo chính đã buộc ông phải trốn khỏi Constantinopolis. Tuy nhiên khi đã yên vị, trong suốt triều đại ngắn ngủi của mình, Basiliscus đã để mất sự ủng hộ của Giáo hội và dân chúng Constantinopolis, chỉ vì lý do đề bạt và cất nhắc những vị trí thần học cho phái Miaphysite mà ông là tín đồ đối lập với đức tin của phái Chalcedonian. Ngoài ra, chính sách của ông chỉ để bảo vệ quyền lực của mình thông qua việc bổ nhiệm những kẻ thân tín giữ những chức vụ trọng yếu gây ra sự chống đối với nhiều nhân vật quan trọng trong triều đình bao gồm cả người chị Verina. [ Đọc tiếp ]

Tuần 41

Thiết giáp hạm HMS Royal Oak (08) vào năm 1937

HMS Royal Oak là một thiết giáp hạm thuộc lớp Revenge của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, Royal Oak tham gia hoạt động lần đầu tiên trong trận Jutland của Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong thời bình, nó từng phục vụ trong các hạm đội Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Hạm đội Nhà, và đã hơn một lần chịu đựng tai nạn tấn công nhầm. Con tàu trở nên tâm điểm sự chú ý của toàn thế giới vào năm 1928 khi vài sĩ quan cao cấp trên tàu bị xét xử trước tòa án binh do mâu thuẫn cá nhân. Trong cuộc đời phục vụ kéo dài 25 năm, mọi dự định hiện đại hóa Royal Oak không thể khắc phục khiếm khuyết căn bản nhất là thiếu tốc độ, và khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, nó không còn phù hợp để hoạt động ở tuyến đầu. Royal Oak đang neo đậu trong vịnh Scapa Flow tại Orkney thuộc Scotland khi nó trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Đức U-47 vào ngày 14 tháng 10 năm 1939, trở thành chiếc đầu tiên trong số năm thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia bị đánh chìm trong Thế Chiến II. Tổn thất nhân mạng rất nặng nề: trong số thủy thủ đoàn gồm 1.234 người và thiếu sinh quân của Royal Oak, 833 đã thiệt mạng hay tử thương. [ Đọc tiếp ]

Tuần 42

Tác phẩm David của Michelangelo, (Phòng trưng bày Galleria dell'Accademia, Florence) là một ví dụ cho đỉnh cao nghệ thuật Phục Hưng

Phục Hưng là một phong trào văn hóa thường được xem là bao phủ giai đoạn từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, khởi đầu tại Firenze (Ý) vào Hậu kỳ Trung Đại, sau đó lan rộng ra phần còn lại của châu Âu ở những quy mô và mức độ khác nhau. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên. Với tư cách một phong trào văn hóa, Phục Hưng bao hàm sự nở rộ của các nền văn học tiếng Latin cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sống lại việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn một hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập. Trong chính trị, Phục Hưng đã đóng góp vào sự phát triển những hiệp ước ngoại giao, và trong khoa học là một sự quan tâm lớn hơn tới quan sát thực nghiệm. Các sử gia thường lập luận những biến đổi về trí tuệ này là một cầu nối giữa Trung Cổ và thời hiện đại. Mặc dù Phục Hưng chứng kiến những cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực, cũng như những thay đổi chính trị-xã hội, nó vẫn được biết đến nhiều nhất bởi những thành tựu lớn lao về mỹ thuật và những cống hiến của những vĩ nhân đa tài như Leonardo da Vinci hay Michelangelo đã làm xuất hiện thuật ngữ Vĩ nhân Phục Hưng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 43

Sao Kim với màu thực tế. Bề mặt hành tinh bị che khuất bởi lớp mây dày đặc.

Sao Kimhành tinh thứ hai từ Mặt Trời, quay quanh nó với chu kỳ 224,7 ngày Trái Đất. Xếp sau Mặt Trăng, nó là thiên thể tự nhiên sáng nhất trong bầu trời tối, với cấp sao biểu kiến bằng −4.6, đủ sáng để tạo lên bóng trên mặt nước. Bởi vì Sao Kim là hành tinh phía trong tính từ Trái Đất, nó không bao giờ xuất hiện trên bầu trời mà quá xa Mặt Trời: góc ly giác đạt cực đại bằng 47,8°. Sao Kim đạt độ sáng lớn nhất ngay sát thời điểm hoàng hôn hoặc bình minh, do vậy mà dân gian còn gọi là sao Hôm, khi hành tinh này mọc lên lúc hoàng hôn, và sao Mai, khi hành tinh này mọc lên lúc bình minh. Sao Kim được xếp vào nhóm hành tinh đất đá và đôi khi người ta còn coi nó là "hành tinh chị em" với Trái Đất do kích cỡ, gia tốc hấp dẫn, tham số quỹ đạo gần giống với Trái Đất. Tuy nhiên, người ta đã chỉ ra rằng nó rất khác Trái Đất trên những mặt khác. Sao Kim bị bao bọc bởi lớp mây dày có tính phản xạ cao chứa axít sunfuric, và khiến chúng ta không thể quan sát bề mặt của nó dưới bước sóng ánh sáng khả kiến. Mật độ không khí trong khí quyển của nó lớn nhất trong số bốn hành tinh đất đá, thành phần chủ yếu là cacbon điôxít. [ Đọc tiếp ]

Tuần 44

USS Guam (CB-2) trong chuyến đi chạy thử máy vào ngày 13 tháng 11 năm 1944.

Lớp tàu tuần dương Alaska là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi là tàu chiến-tuần dương, Hải quân Mỹ chính thức xếp hạng chúng là những tàu tuần dương lớn với ký hiệu lườn CB. Bản chất trung gian của chúng được thể hiện qua tên mà chúng được đặt so với thông lệ đặt tên cho thiết giáp hạm và tàu tuần dương vào lúc đó, tất cả đều được đặt tên theo "lãnh thổ hoặc vùng quốc hải" của Hoa Kỳ. Trong số sáu chiếc được vạch kế hoạch, có ba chiếc được đặt lườn, và chỉ có hai chiếc được hoàn tất. Việc chế tạo chiếc thứ ba bị ngưng lại vào ngày 16 tháng 4 năm 1945 khi nó đã hoàn tất được 84%. Hai chiếc được hoàn tất, USS Alaska (CB-1)USS Guam (CB-2) đã phục vụ trong hai năm sau cùng của Thế chiến II trong vai trò bắn phá bờ biển và hộ tống các tàu sân bay nhanh. Cả hai chiếc đều được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 chỉ sau khi phục vụ được 32 và 29 tháng tương ứng. Ý tưởng về một lớp tàu tuần dương lớn khởi sự vào đầu những năm 1930, khi Hải quân Mỹ muốn đối phó lại những chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" thuộc lớp Deutschland được Đức cho hạ thủy và đưa vào hoạt động. Cho dù không có một kết quả cụ thể nào ngay lập tức, kế hoạch về những chiếc tàu sau đó tiến triển thành lớp Alaska vào cuối những năm 1930 sau khi Đức đưa vào hoạt động lớp Scharnhorst cùng những lời đồn đại rằng Nhật Bản đang chế tạo một lớp tàu chiến-tuần dương mới. [ Đọc tiếp ]

Tuần 45

Hôn nhân đồng giới ở Tây Ban Nha được hợp pháp hóa từ 3 tháng 7, 2005. Năm 2004, chính phủ dân chủ xã hội vừa được bầu cử, được lãnh đạo bởi Thủ tướng José Luis Rodríguez Zapatero, bắt đầu chiến dịch hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính bao gồm quyền nhận con nuôi của các cặp đồng tính. Sau nhiều tranh luận, luật cho phép hôn nhân đồng tính được Quốc hội Tây Ban Nha thông qua vào 30 tháng 6, 2005 và công bố vào 2 tháng 7, 2005. Hôn nhân đồng giới bắt đầu hợp pháp từ Chủ nhật, 3 tháng 7, 2005. Tây Ban Nha trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính trên cả nước theo sau Hà LanBỉ và trước Canada 17 ngày. Việc phê chuẩn điều luật này không phải là không có sự phản đối mặc dù 66% người dân ủng hộ. Những nhà lãnh đạo Công giáo La Mã đặc biệt cương quyết phản đối và chỉ trích rằng việc này sẽ làm suy yếu đi ý nghĩa của hôn nhân. Những tổ chức khác bày tỏ sự lo ngại về việc nhận con nuôi của các cặp đồng tính. Biểu tình ủng hộ lẫn chống đối dự luật lôi kéo hàng ngàn người trên khắp các vùng của Tây Ban Nha. Sau khi dự luật này được phê chuẩn, Đảng Nhân dân Tây Ban Nha, một đảng bảo thủ đã kiện luật này ra Tòa án hiến pháp Tây Ban Nha. [ Đọc tiếp ]

Tuần 46

Thủy quân lục chiến Mỹ vượt sông Matanikau bằng thuyền gỗ, tháng 11 năm 1942

Cuộc tấn công Matanikau, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 11 năm 1942, là trận đánh giữa Thủy quân lục chiến Hoa KỳLục quân Hoa Kỳ với Lục quân Đế quốc Nhật Bản tại khu vực sông Matanikau và Point Cruz thuộc đảo Guadalcanal trong Chiến dịch Guadalcanal thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận đánh này là một trong những trận đánh cuối cùng gần sông Matanikau của chiến dịch. Sau chiến thắng của Hoa Kỳ trong Trận chiến sân bay Henderson trước đó, bảy tiểu đoàn Thủy quân lục chiến và Lục quân Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng Alexander Vandegrift và chỉ huy chiến thuật bởi Đại tá Merritt A. Edson đã vượt sông Matanikau và tấn công các lực lượng quân Nhật ở vị trí giữa con sông và Point Cruz, bờ biển phía bắc Guadalcanal. Khu vực này được phòng thủ bởi Trung đoàn Bộ binh số 4 của Đại tá Nomasu Nakaguma cùng với một số đơn vị hỗ trợ khác, tất cả thuộc về Quân đoàn 17 của tướng Hyakutake Harukichi. Sau khi gây ra thương vong lớn cho quân Nhật phòng thủ khu vực này, các lực lượng Hoa Kỳ đã phải rút lui vì mối đe dọa từ quân Nhật mới đổ bộ lên Guadalcanal. [ Đọc tiếp ]

Tuần 47

Thiết giáp hạm USS North Carolina (BB-55) trên đường đi ngày 3 tháng 6 năm 1946.

Lớp thiết giáp hạm North Carolina là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm nhanh, North CarolinaWashington, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Thoạt tiên, Hải quân vẫn ngờ vực rằng lớp tàu này có đủ nhanh để đối phó với lớp tàu chiến-tuần dương Nhật Bản Kongō hay không, vốn được người Mỹ tin rằng có thể đạt đến tốc độ 26 hải lý trên giờ (30 mph; 48 km/h)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ], hay phải hy sinh tốc độ để có được hỏa lực và vỏ giáp tăng cường. Hiệp ước Hải quân London thứ hai giới hạn tải trọng tiêu chuẩn của mọi tàu chiến chủ lực dưới 35.000 tấn Anh (39.000 tấn Mỹ)[chuyển đổi: tùy chọn không hợp lệ], có nghĩa là các tính năng mong muốn không thể đạt được trong các phạm vi giới hạn của hiệp định, và Hải quân Mỹ đã phải cân nhắc đến trên 50 thiết kế trước khi một kiểu được chọn. Vào lúc kết thúc quá trình thiết kế dài đằng đẵng này, Ủy ban Tướng lĩnh Hải quân Mỹ tuyên bố ủng hộ thiết kế "XVI-C", vốn có tốc độ tối đa 30 kn (35 mph; 56 km/h) và dàn pháo chính gồm chín khẩu 14 in (360 mm)/50 caliber Mark B. Ủy ban tin rằng những con tàu như vậy có thể đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau, vừa có được sự bảo vệ thích đáng để có mặt trong hàng thiết giáp hạm cũng như có đủ tốc độ để hộ tống các tàu sân bay nhanh hay tham gia chiến tranh cướp tàu buôn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 48

Ảnh tổng hợp từ tàu Cassini khi lướt qua Sao Mộc. Chấm tối là bóng của Europa. Vết Đỏ Lớn, một cơn bão tồn tại từ lâu có chiều quay ngược với các dải mây xung quanh, phía dưới bên phải. Các dải mây trắng, gọi là vùng, hay vùng khí nhẹ bay lên-mây cao; những dải mây màu đỏ nâu, gọi là vành đai, hay vùng khí thấp hơn-mây thấp. Vùng mây trắng chứa băng amoniac và những vùng mây thấp chưa biết rõ thành phần.

Sao Mộchành tinh thứ năm tính từ Mặt Trời và là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh khí khổng lồ với khối lượng bằng một phần nghìn của Mặt Trời nhưng bằng hai lần rưỡi tổng khối lượng của tất cả các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời cộng lại. Sao Mộc được xếp vào nhóm các hành tinh khí khổng lồ cùng với Sao Thổ, Sao Thiên VươngSao Hải Vương. Bốn hành tinh này đôi khi được gọi là hành tinh kiểu Mộc Tinh hoặc hành tinh vòng ngoài. Các nhà thiên văn học cổ đại đã biết đến hành tinh này, và gắn với thần thoại và niềm tin tôn giáo trong nhiều nền văn hóa. Người La Mã đặt tên hành tinh theo tên của vị thần Jupiter, vị thần quan trọng nhất trong số các vị thần. Tên gọi trong tiếng Trung Quốc, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật và tiếng Việt của hành tinh này được đặt dựa vào hành "mộc" trong ngũ hành. Khi nhìn từ Trái Đất, Sao Mộc có cấp sao biểu kiến −2,94, đủ sáng để tạo bóng; và là thiên thể sáng thứ ba trên bầu trời đêm sau Mặt TrăngSao Kim. (Sao Hỏa hầu như sáng bằng Sao Mộc khi Sao Hỏa ở những vị trí xung đối trên quỹ đạo của nó với Trái Đất.) [ Đọc tiếp ]

Tuần 49

Ảnh chụp khi diễn ra nhật thực toàn phần ngày 11 tháng 8 năm 1999.

Nhật thực xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái ĐấtMặt Trời và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời. Điều này chỉ có thể xảy ra tại thời điểm sóc trăng non khi nhìn từ Trái Đất, lúc Mặt Trời và Mặt Trăng giao hội và bóng của Mặt Trăng phủ lên Trái Đất. Trong lúc nhật thực toàn phần, đĩa Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn. Với nhật thực một phần hoặc hình khuyên, đĩa Mặt Trời chỉ bị che khuất một phần. Nếu Mặt Trăng có quỹ đạo tròn hoàn hảo, gần hơn Trái Đất một chút, và trong cùng mặt phẳng quỹ đạo, sẽ có nhật thực toàn phần xảy ra mỗi lần trong một tháng. Tuy nhiên, quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng hơn 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (xem mặt phẳng hoàng đạo), do vậy bóng của Mặt Trăng lúc trăng non thường không chiếu lên Trái Đất. Để hiện tượng nhật thực cũng như nguyệt thực xảy ra, Mặt Trăng phải đi qua mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. Hơn nữa, quỹ đạo của Mặt Trăng có hình elip, và nó thường ở đủ xa Trái Đất khiến cho kích cỡ biểu kiến của nó không đủ lớn để che khuất hoàn toàn Mặt Trời lúc nhật thực. [ Đọc tiếp ]

Tuần 50

Tàu chiến-tuần dương SMS Seydlitz trong cảng trước Thế Chiến I

SMS Seydlitz là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910 và đưa ra hoạt động vào tháng 5 năm 1913, nó là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ tư được chế tạo cho Hạm đội Biển khơi. Seydlitz được đặt tên theo Friedrich Wilhelm von Seydlitz, vị tướng Phổ vào triều đại vua Frederick đại đế và từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh bảy năm. Thiết kế của Seydlitz phản ảnh sự tích lũy kinh nghiệm trong thế hệ đầu tiên của các tàu chiến-tuần dương Đức, khởi đầu từ chiếc Von der Tann vào năm 1906 và tiếp nối bởi hai chiếc thuộc lớp Moltke được đặt hàng vào các năm 19071908. Seydlitz mang nhiều đặc tính được cải thiện so với các thiết kế dẫn trước, bao gồm hệ thống động lực được thiết kế lại và cải tiến sơ đồ vỏ giáp. Con tàu cũng lớn hơn đáng kể so với những chiếc tiền nhiệm, nặng hơn khoảng 3.000 tấn (3.000 tấn Anh) so với những chiếc thuộc lớp Moltke. Seydlitz tham gia nhiều hoạt động chính của hạm đội trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm các trận Dogger Bank và Jutland tại Bắc Hải. Con tàu bị hư hại đáng kể trong cả hai trận đụng độ trên: trong trận Dogger Bank, một quả đạn pháo 13,5 in (340 mm) từ chiếc tàu chiến-tuần dương Anh Lion đã trúng tháp pháo tận cùng phía đuôi của Seydlitz, suýt gây nên một vụ nổ hầm đạn vốn sẽ phá hủy con tàu. [ Đọc tiếp ]

Tuần 51

Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Một lý giải thường gặp đó là không gian tự nó đang giãn nở, khiến các thiên hà đang lùi ra xa lẫn nhau, giống như các điểm trên quả bóng thổi phồng. Hình này minh họa vũ trụ phẳng đang giãn nở.

Lý thuyết Vụ Nổ Lớn (Big Bang) là mô hình vũ trụ học nổi bật miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành Vũ trụ. Theo lý thuyết này, Vụ Nổ Lớn xảy ra xấp xỉ cách nay 13,798 ± 0,037 tỷ năm trước, và được các nhà vũ trụ học coi là tuổi của vũ trụ. Sau giai đoạn này, vũ trụ ở vào trạng thái cực nóng và đặc và bắt đầu giãn nở nhanh chóng. Sau giai đoạn lạm phát, vũ trụ đủ "lạnh" để năng lượng bức xạ (photon) chuyển đổi thành nhiều hạt hạ nguyên tử, bao gồm proton, neutron, và electron. Tuy những hạt nhân nguyên tử đơn giản có thể hình thành nhanh chóng sau Big Bang, phải mất hàng nghìn năm sau các nguyên tử trung hòa điện mới xuất hiện. Nguyên tố đầu tiên sinh ra là hiđrô, cùng với lượng nhỏ heliliti. Những đám mây khổng lồ chứa các nguyên tố nguyên thủy sau đó hội tụ lại bởi hấp dẫn để hình thành lên các ngôi sao và các thiên hà rồi siêu đám thiên hà, và nguyên tố nặng hơn hoặc được tổng hợp trong lòng ngôi sao hoặc sinh ra từ các vụ nổ siêu tân tinh. Thuyết Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng và được cộng đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nó đưa ra cách giải thích hoàn thiện về nhiều loại hiện tượng quan sát thấy trong vũ trụ, bao gồm sự có mặt của những nguyên tố nhẹ, bức xạ nền vi sóng vũ trụ, cấu trúc vĩ mô của vũ trụ, và định luật Hubble đối với siêu tân tinh loại Ia. [ Đọc tiếp ]

Tuần 52

Sao Thiên Vương hiện lên đồng màu qua ảnh chụp của Voyager 2 năm 1986. Màu sắc của nó phản ánh sự có mặt của bụi mờ quang hóa học hiđrocacbon trên cao nằm phía trên các đám mây mêtan, mà những đám mây này nằm trên các đám mây hydrogen sulfide và/hoặc amoniac (bên dưới những đám mây này là những tầng mây không nhìn thấy được với các thành phần khác nhau). Màu lục-lam là do sự hấp thụ của khí mêtan.

Sao Thiên Vươnghành tinh thứ bảy tính từ Mặt Trời; là hành tinh có bán kính lớn thứ ba và có khối lượng lớn thứ tư trong hệ. Sao Thiên Vương có thành phần tương tự như Sao Hải Vương, và cả hai có thành phần hóa học khác so với hai hành tinh khí khổng lồ lớn hơn là Sao MộcSao Thổ. Vì lý do này, các nhà thiên văn thỉnh thoảng phân chúng vào loại hành tinh khác gọi là "hành tinh băng khổng lồ". Khí quyển của Sao Thiên Vương, mặc dù tương tự như của Sao Mộc và Sao Thổ về những thành phần cơ bản như hiđrôheli, nhưng chúng chứa nhiều "hợp chất dễ bay hơi" như nước, amoniac, và mêtan, cùng với lượng nhỏ các hiđrôcacbon. Hành tinh này có bầu khí quyển lạnh nhất trong số các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, với nhiệt độ cực tiểu bằng 49 K (−224 °C). Nó có cấu trúc tầng mây phức tạp, với khả năng những đám mây thấp nhất chứa chủ yếu nước, trong khi mêtan lại chiếm chủ yếu trong những tầng mây phía trên. Ngược lại, cấu trúc bên trong Thiên Vương Tinh chỉ chứa chủ yếu một lõi băng và đá. [ Đọc tiếp ]