Bước tới nội dung

Tiếng Đông Can

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tiếng Đông Can
Хуэйзў йүян, Huejzw jyjan
خُوِزُو یُوِیًا, 回族語言
Phát âm[xwɛi˨˦tsu˨˦ jy˨˩˦jɑn˨˦]
Sử dụng tạiTrung Á
Khu vựcThung lũng Fergana, sông Chuy
Tổng số người nói110.000
Dân tộcngười Đông Can
Phân loạiHán-Tạng
Hệ chữ viếtchữ Kirin (chính thức), Tiểu nhi kinh (lịch sử), chữ Latinh (lịch sử), Bính âm
Mã ngôn ngữ
ISO 639-3dng
Glottologdung1253[1]
ELPDungan
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.
Tiếng Đông Can
Tên tiếng Trung
Phồn thể東干語
Giản thể东干语
Tên Đông Can
Tiếng Đông CanХуэйзў йүян
Xiao'erjingحُوِظُ يُوْيًا
la tinh hóaHuejzw jyian
Hueyzû yüyan
Chữ Hán回族語言 (Huízú yǔyán)
Tên tiếng Nga
Tiếng NgaДунганский язык
Latinh hóaDunganskij jazyk
Tên tiếng Kyrgyz
KyrgyzДунган тили
دۇنعان تىلى

Dunğan tili

Tiếng Đông Can là một ngôn ngữ Hán[2] được nói chủ yếu ở KazakhstanKyrgyzstan bởi người Đông Can, một dân tộc liên quan đến người HồiTrung Quốc. Mặc dù nó có nguồn gốc từ Quan Thoại Trung Nguyên ở Cam TúcThiểm Tây, nhưng nó chủ yếu được viết bằng chữ Kirin và có các từ mượn và cấu trúc không tìm thấy trong các loại Quan thoại hiện đại khác.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Người Đông Can ở KyrgyzstanKazakhstan (và các nhóm nhỏ hơn sống ở các quốc gia hậu Xô Viết khác) là hậu duệ của một số nhóm người Hồi di cư đến vào những năm 1870 và 1880 sau thất bại của cuộc nổi dậy Đông Can ở Tây Bắc Trung Quốc. Người Hồi ở Tây Bắc Trung Quốc (thường được các nhà văn phương Tây thế kỷ 19 cũng như các thành viên của các dân tộc Turk ở Trung Quốc và Trung Á gọi là "người Đông Can" hoặc "Tungani") thường nói một phương ngữ tiếng Quan thoại như người Hán ở khu vực (hoặc trong khu vực mà cộng đồng Hồi đã di cư đến). Đồng thời, do lịch sử độc đáo của họ, tiếng nói của họ rất phong phú về thuật ngữ ảnh hưởng từ Hồi giáo, dựa trên các từ mượn từ tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư và các ngôn ngữ Turk, cũng như bản dịch của chúng sang tiếng Trung Quốc. Các thương nhân Hồi có thể sử dụng tiếng Ả Rập hoặc tiếng Ba Tư khi nói chuyện với nhau, để giấu người Hán.[3] Trong khi không phải tạo thành một ngôn ngữ riêng biệt, những từ, cụm từ và lượt nói, được gọi là Huihui hua (回回話, Hồi Hồi thoại, "tiếng nói của người Hồi"), được dùng để đánh dấu danh tính nhóm. Những du khách đầu thế kỷ 20 đến Tây Bắc Trung Quốc nhận thấy, "Người Hồi Trung Quốc ở một mức độ nào đó có từ vựng và lối nói riêng".[4]

Vì người Đông Can ở Đế quốc Nga, và thậm chí ở Liên Xô, bị cô lập khỏi Trung Quốc, ngôn ngữ của họ đã trải qua những ảnh hưởng đáng kể từ tiếng Nga và nhóm tiếng Turk của các nước láng giềng. Khi Dru C. Gladney, người đã trải qua mấy năm làm việc với người Hồi ở Trung Quốc, đã gặp gỡ người Đông Can ở Almaty vào năm 1988, ông mô tả những trãi nghiệm như nói bằng "một phương ngữ Cam Túc trộn lẫn kết hợp từ vựng tiếng Thổ và tiếng Nga".[5]

Sự hiểu thông hiểu với tiếng địa phương

[sửa | sửa mã nguồn]

Có nhiều mức độ khác nhau về sự thông hiểu lẫn nhau giữa tiếng Đông Can và các phương ngữ Quan thoại khác nhau. Người Đông Can có thể hiểu các phương ngữ Quan thoại Thiểm Tây và Cam Túc. Mặt khác, những người nói tiếng Đông Can như Yasyr Shivaza và những người khác đã ghi nhận rằng người Trung Quốc nói phương ngữ Bắc Kinh có thể hiểu tiếng Đông Can, nhưng người Đông Can không thể hiểu Quan thoại Bắc Kinh.[6]

Nhân khẩu học

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Đông Can được nói chủ yếu ở Kyrgyzstan, cũng như ở Nga, KazakhstanUzbekistan. Dân tộc Đông Can là hậu duệ của những người tị nạn từ Trung Quốc di cư về phía tây vào Trung Á.

Theo điều tra dân số của Liên Xô từ năm 1970 đến 1989, người Đông Can duy trì việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc của họ thành công hơn nhiều so với các nhóm dân tộc thiểu số khác ở Trung Á; tuy nhiên, trong thời kỳ hậu Xô Viết, tỷ lệ người nói tiếng Đông Can dường như đã giảm mạnh.

Hệ thống chữ viết

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Đông Can hiện đại là tiếng Hán duy nhất được viết bằng chữ Kirin, vì họ sống dưới sự cai trị của Liên Xô. Chữ viết này là một bảng chữ cái dựa trên chữ Nga cộng với năm kí tự đặc biệt: Җ, Ң, Ү, Ә và Ў. Như vậy, nó khác một chút so với hệ thống Palladius thường được sử dụng ở Nga để viết tiếng Trung Quốc bằng chữ Kirin.

Ký hiệu song ngữ bằng tiếng Nga và tiếng Đông Can tại nhà của anh hùng chiến tranh Liên Xô Mansuzy Vanakhun.

Tiếng Đông Can độc đáo ở chỗ nó là một ngôn ngữ hiếm hoi thuộc nhóm tiếng Trung không viết bằng chữ Hán. Người Đông Can là hậu duệ người Hồi Hồi giáo, ban đầu viết thứ chữ viết dựa trên chữ Ả Rập có tên là Tiểu nhi kinh. Liên Xô đã cấm tất cả các chữ viết Ả Rập vào cuối những năm 1920, dẫn đến sự ra đời một biến thể Latinh. Chữ Latinh được sử dụng đến năm 1940, chính phủ Liên Xô ban hành hệ thống dựa trên chữ Kirin hiện nay. Tiểu Nhi Kinh hiện gần như biến mất trong xã hội Đông Can, nhưng nó đôi lúc vẫn được sử dụng bởi một số cộng đồng người Hồi ở Trung Quốc.

Hệ thống chữ viết dựa trên phương ngữ '3 thanh điệu' chuẩn. Dấu thanh hoặc số đếm không xuất hiện trong văn bản mục đích chung, nhưng được định rõ trong từ điển, ngay cả đối với các từ mượn.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Dungan”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
  2. ^ Different from Mandarin in phonology and lexicon.
  3. ^ Gladney (1991), p. 68
  4. ^ Owen Lattimore, The Desert Road to Turkestan. London, Methuen & Co, ca. 1928–1929. Page 196.
  5. ^ Gladney, pp 33, 102
  6. ^ Rimsky-Korsakoff Dyer, Svetlana (1977). “Soviet Dungan nationalism: a few comments on their origin and language”. Monumenta Serica. 33: 349–362. doi:10.1080/02549948.1977.11745054. p. 351.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • “Soviet Dungan: The Chinese language of Central Asia: alphabet, phonology, morphology”. Monumenta Serica. 26: 352–421. 1967. doi:10.1080/02549948.1967.11744973. JSTOR 40725857.
  • Svetlana Rimsky-Korsakoff Dyer, Iasyr Shivaza: The Life and Works of a Soviet Dungan Poet. 1991. ISBN 3-631-43963-6. (Contains a detailed bibliography and ample samples of Shivaza works', some in the original Cyrillic Dungan, although most in a specialized transcription, with English and sometimes standard Chinese translations).
  • Olga I. Zavjalova. "Some Phonological Aspects of the Dungan Dialects." Computational Analyses of Asian and African Languages. Tokyo, 1978. No. 9. Pp. 1–24. (Contains an experimental analysis of Dungan tones).
  • Olga Zavyalova. "Dungan Language." Encyclopedia of Chinese Language and Linguistics. General Editor Rint Sybesma. Vol. 2. Leiden–Boston: Brill, 2017. Pp. 141–148.
  • 海峰。 中亚东干语言研究 (Hai Feng. Zhongya Donggan yuyan yanjiu—A Study of the Dungan Language of Central Asia.) Urumchi, 2003. 479 p. ISBN 7-5631-1789-X. (Description of the Dungan language by a professor of Xinjiang University).
  • Salmi, Olli (2018). Dungan–English Dictionary. Manchester, UK: Eastbridge Books. ISBN 978-1-78869-154-3.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Ngôn ngữ tại Uzbekistan Bản mẫu:Ngôn ngữ tại Tajikistan Bản mẫu:Ngôn ngữ tại Turkmenistan

Bản mẫu:Ngôn ngữ tại Kazakhstan Bản mẫu:Ngôn ngữ tại Kyrgyzstan