Bước tới nội dung

Lương Tài

Lương Tài
Huyện
Huyện Lương Tài
Hồ Thứa ở thị trấn Thứa, huyện Lương Tài
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Hồng
TỉnhBắc Ninh
Huyện lỵthị trấn Thứa
Phân chia hành chính1 thị trấn, 11 xã
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDPhạm Thanh Hải
Chủ tịch HĐNDNguyễn Văn Long
Bí thư Huyện ủyLê Tuấn Hồng
Địa lý
Tọa độ: 21°01′04″B 106°12′06″Đ / 21,017699°B 106,201595°Đ / 21.017699; 106.201595
MapBản đồ huyện Lương Tài
Lương Tài trên bản đồ Việt Nam
Lương Tài
Lương Tài
Vị trí huyện Lương Tài trên bản đồ Việt Nam
Diện tích105,9 km²
Dân số
Tổng cộng105.550 người
Mật độ997 người/km²
Dân tộcChủ yếu là Kinh
Khác
Mã hành chính264[1]
Biển số xe99-K1
Websiteluongtai.bacninh.gov.vn

Lương Tài (tên cũ là Lang Tài) là một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.

Vị trí địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lương Tài nằm ở phía nam của tỉnh Bắc Ninh, nằm cách thành phố Bắc Ninh khoảng 30 km về phía nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 52 km, có vị trí địa lý:

Huyện Lương Tài có các trục giao thông huyết mạch nhằm phát triển kinh tế xã hội là tỉnh lộ 280, 281, 284, 285 nối Lương Tài với Gia Bình, Thuận Thành (Bắc Ninh), Lương Tài với Cẩm Giàng (Hải Dương).

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lương Tài có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc[2], bao gồm thị trấn Thứa (huyện lỵ) và 11 xã: An Thịnh, Bình Định, Lâm Thao, Phú Hòa, Phú Lương, Quảng Phú, Tân Lãng, Trung Chính, Trung Kênh, An Tập, Quang Minh

Có 102 thôn, trên 29.000 hộ và 105.000 nhân khẩu (năm 2013).

Cơ sở hạ tầng

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lương Tài có đầy đủ các công trình công cộng thiết yếu như: bệnh viện, trường học, trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính, trung tâm văn hóa... Nhiều tuyến đường trong huyện liên tục được xây mới và mở rộng, các tuyến đường cũng được trải nhựa và lắp đèn cao áp. Tuyến đường đê sông Thái Bình chạy qua huyện cũng được trang bị đèn cao áp.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo tài liệu Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (大越國總覽圖), thì cái tên Lương Tài (良才) đã có từ trước năm 1424.

Thời kỳ thuộc Minh, vùng này thuộc huyện Thương Tài, thuộc châu Gia Lâm, phủ Bắc Giang. Đến thời Hậu Lê, đổi tên thành Thiện Tài, rồi lại đổi là Lang Tài.

Đời Gia Long, thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Năm 1822, Minh Mạng đổi trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh, năm 1831 thì đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Lang Tài thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Không rõ vì sao có sự biến âm Lang Tài và Lương Tài. Tài liệu Đại Nam Nhất Thống Chí tập 4, trang 60, vẫn chép là Lang Tài (莨才). Tuy nhiên, đến tháng 8 năm 1950, huyện sáp nhập với huyện Gia Bình thành huyện Gia Lương thuộc tỉnh Hà Bắc.

Từ 9 tháng 8 năm 1999, huyện được tái lập trên cơ sở chia huyện Gia Lương thành huyện Gia Bình và Lương Tài.[3] Huyện Lương Tài khi đó gồm có thị trấn Thứa (xã Phá Lãng cũ) và 13 xã: An Thịnh, Bình Định, Lai Hạ, Lâm Thao, Minh Tân, Mỹ Hương, Phú Hòa, Phú Lương, Quảng Phú, Tân Lãng, Trung Chính, Trung Kênh, Trừng Xá giữ nguyên trạng đến nay.

Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa ban hành Nghị quyết số 1255/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2023-2025.( Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 12 năm 2024)

Sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Lương Tài như sau:

Thành lập xã An Tập trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích tự nhiên 4,85km2, quy mô dân số là 4.591 người của xã Lai Hạ và toàn bộ diện tích tự nhiên là 5,31km2, quy mô dân số là 7.662 người của xã Mỹ Hương. Sau khi thành lập, xã An Tập có diện tích tự nhiên là 10,16km2 và quy mô dân số là 12.253 người.

Thành lập xã Quang Minh trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích tự nhiên là 5,43km2, quy mô dân số là 5.207 người của xã Trừng Xá và toàn bộ diện tích tự nhiên là 5,99km2, quy mô dân số là 5.697 người của xã Minh Tân. Sau khi thành lập, xã Quang Minh có diện tích tự nhiên là 11,42km2 và quy mô dân số là 10.904 người.

Sau khi sắp xếp, huyện Lương Tài có 12 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 11 xã và 1 thị trấn. [1]

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Điều kiện tự nhiên:

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện có địa hình đồng bằng. Sông Thái Bình chảy qua phía đông huyện. Kinh tế huyện thuần nông, chuyên trồng lúa, ngô, cây ăn quả, hoa màu, dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò, gia cầm. Nghề thủ công truyền thống là dệt lụa, đúc đồng.

Dân cư - lao động:

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2013, huyện Lương Tài có 105.000 người. Trong đó dân cư nông thôn chiếm trên 74,1%, dân số thành thị chiếm 25,9%. Thành phần dân số này có xu hướng chuyển dịch theo cơ cấu tăng dân số thành thị và giảm dần số nông thôn.

Từ 1945 trở về trước, huyện Lương Tài ước tính có từ 10 000 đến 30 000 người (nay toàn huyện có trên 100 000 người), tất cả đều là người Kinh (người Việt). Ở miền đất trũng này, nhân dân trong huyện sống bằng nghề làm ruộng là chủ yếu (làm lúa nước). Do đất trũng nên hàng năm ở nhiều xã nước ngập phải đi đò đến ba bốn tháng. Bởi vậy chỉ cấy lúa được một vụ chiêm. Chỉ một ít thôn, xã ven đê và lẻ tẻ có những mảnh ruộng cao trồng thêm các cây màu như: đỗ, lạc, ngô, khoai, cà rốt…

Ngoài nghề trồng lúa nước, từ xưa Lương Tài cũng đã có một số nghề phụ truyền thống chủ yếu phục vụ nhu cầu của địa phương và các huyện lân cận. Nhiều xã, xóm, nơi đồng bãi ở ven đê, trồng khá nhiều dâu và tận dụng các vườn, bờ rào phân cách các nhà để trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải. Ở các chợ trong huyện có bán các loại vải: vải dương, lụa, tơ tằm. Tiêu biểu cho nghề "dâu, tằm tơ…" bấy giờ là tổng Ngọc Trì (gọi là Lung Bền) nay là thôn Ngọc Trì, xã Bình Định. Nghề bện thừng ở thị trấn Thứa (xã Phá Lãng cũ); nghề đan lưới đánh cá ở xã Phú Lương, nghề đan võng ở An Trụ (xã An Thịnh), nghề làm bánh đa ở Tử Nê (xã Tân Lãng) và nghề đúc đồng ở thôn Quảng Bố, tổng Quảng Bố nay là xã Quảng Phú… Các nghề phụ là nghề chỉ làm tranh thủ những khi nông nhàn hoặc các thời gian không lao động ngoài trời ngày mưa rét, trưa hè nắng gắt, ban đêm.

Ngày nay ngoài nghề chính là nghề trồng lúa nước mà hiện nay ruộng đất đã xoay vòng từ 2 đến 3 vụ (2 vụ lúa, 1 vụ màu) nên năng suất lúa càng ngày càng cao.

Dân số Lương Tài là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động. Với chất lượng ngày càng được nâng cao đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của huyện Lương Tài cũng như tỉnh Bắc Ninh.

Giao thông:

[sửa | sửa mã nguồn]

Về giao thông, huyện Lương Tài có đường liên tỉnh chạy qua. Huyện Lương Tài cũng như tỉnh Bắc Ninh nói chung có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải. Huyện Lương Tài có các trục giao thông huyết mạch nhằm phát triển kinh tế xã hội là tỉnh lộ 280, 281, 284, 285 nối Lương Tài với Gia Bình, Thuận Thành (Bắc Ninh), Lương Tài với Cẩm Giàng (Hải Dương). Mạng lưới giao thông huyện Lương Tài chủ yếu là đường bộ, đường thủy. Nhiều đường ở nông thôn được nâng cấp và xây dựng mới, góp phần tích cực vào việc mở rộng thông thương, khai thác tiềm năng của huyện.

Thông tin liên lạc:

[sửa | sửa mã nguồn]
Tháp thu phát sóng thị trấn Thứa, huyện Lương Tài
Tháp thu phát sóng thị trấn Thứa, huyện Lương Tài

Mạng lưới bưu chính viễn thông đã thay đổi căn bản từ hệ analog lạc hậu sang hệ digital hiện đại. Mạng thông tin di động và Internet tuy mới xuất hiện nhưng đã phát triển rất nhanh. Hoạt động của các mạng công nghệ thông tin đã góp phần đáng kể trong công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính của các cơ quan Đảng và Nhà nước huyện Lương Tài. Tuy nhiên đến năm 2016 trên địa bàn huyện Lương Tài mới chỉ có 1 điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng (tại thị trấn Thứa), con số khá khiêm tốn so với các huyện khác như Gia Bình 2 điểm, Thuận Thành 3 điểm, Yên Phong 3 điểm... Trong thời gian tới cần tăng số địa điểm cung cấp dịch vụ để người dân được thuận tiện trong việc tiếp cận với hệ thống thông tin liên lạc.[4]

Giáo dục:

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lương Tài có trường Trung học phổ thông khá nổi tiếng trong tỉnh là Trường THPT Lương Tài. Trường được thành lập năm 1953. Là trường THPT khá lâu đời ở tỉnh Bắc Ninh.[5]

Mạng lưới trường học ở tất cả các bậc học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông phát triển đều khắp trên địa bàn toàn huyện. Cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên trong các trường ngày càng được củng cố về chất lượng và phát triển về số lượng theo hướng chuẩn hoá. Tính đến nay toàn huyện đã có hơn 51 trường ở tất cả các bậc học. Theo đó chất lượng giáo dục cũng từng bước được nâng cao. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh và phát triển bằng các hoạt động thiết thực thông qua các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội khuyến học huyện đến các thôn làng, dòng họ đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của giáo dục của huyện Lương Tài.

Tôn giáo:

[sửa | sửa mã nguồn]

Về mặt tôn giáo, huyện Lương Tài có 2 tôn giáo chính là: Phật giáoThiên Chúa giáo. Trải qua quá trình lịch sử, đặc biệt là sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, nhân dân bên lương và bên giáo luôn sống chung và giữ vững đoàn kết.

Tất cả mọi người được hưởng quyền tự do, dân chủ (có thể theo đạo Phật, đạo Thiên chúa hoặc không theo đạo nào). Trong lĩnh vực tâm linh, tín ngưỡng được các cấp chính quyền, đoàn thể quan tâm đúng mức. Nhiều chùa triền, nhiều nhà thờ công giáo được trùng tu hoặc xây dựng lại ngày càng khang trang. Các đình, đền, miếu, các di tích lịch sử được xây dựng hoặc tu bổ…chính là nơi giáo dục truyền thống "yêu đất nước, quê hương" cho thế hệ ngày nay cũng như các thế hệ mai sau.

Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác... Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo những khuôn phép đạo đức hợp với tín điều của tôn giáo mình, hành động không phải chỉ là thực hành một số hình thức nghi lễ, mà còn phải sống theo những quy tắc đạo đức nhất định.[6] Niềm tin tôn giáo giúp người dân trên địa bàn huyện Lương Tài tiếp cận với những tư tưởng, đạo đức tôn giáo tốt đẹp, góp phần tạo ra nếp sống tiến bộ, văn minh, hài hòa, đoàn kết, tạo sự phát triển ổn định về mặt văn hóa - xã hội.

Danh nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyện Lương Tài là quê hương của các danh nhân nổi tiếng như Hàn Thuyên, Vũ Giới, Phạm Quang Tiến, Nguyễn Quốc Đông, Nguyễn Thị Kim, Vũ Miên, Vũ Trinh, Hoàng Sĩ Khải, Nguyễn Bạt Tuỵ... Danh nhân Hàn Thuyên là danh nhân tiêu biểu của huyện Lương Tài nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung. Đền thờ ông đặt tại quê hương ông - thôn Lai Hạ, xã Lai Hạ, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông là danh nhân nổi tiếng của Việt Nam thời nhà Trần. Hiện nay, tên của ông được đặt cho nhiều đường ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Bắc Ninh… và nhiều trường học, nhà xuất bản cũng mang tên ông. Tuy nhiên, tiểu sử và cuộc đời của ông đến nay vẫn là một ẩn số. Ông nổi tiếng với bài "Văn tế Cá sấu" kỳ lạ của mình.

Văn tế cá sấu

Ngặc ngư kia hỡi! Mày có hay!

Biển Đông rộng rãi là nơi này

Phù Lương đây thuộc về thánh vực

Lạc lối đâu mà lại đến đây

Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa

Dân quen chài lưới chẳng tay vừa

Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy

Xuống nước giao long cũng phải chừa

Thánh thần nối dõi bản triều nay

Dấy từ Hải ấp ngôi trời thay

Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh

Biển lặng sông trong mới có rày

Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy

Nhân vật đều yên đâu ở đấy

Ta vâng đế mạng bảo cho mày

Hãy vào biển khơi mà vùng vẫy...

Truyền thống khoa bảng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tỉnh Bắc Ninh là nơi có truyền thống khoa bảng nổi tiếng với diện tích nhỏ nhất nước nhưng số Trạng nguyên nhiều nhất nước, số Tiến sĩ Nho học nhiều nhất nước. Huyện Lương Tài cũng đóng góp Trạng nguyên, Tiến sĩ Nho học thể hiện rõ truyền thống đó.

Trong lịch sử, ở huyện Lang Tài (Lương Tài ngày nay), người đỗ Tiến sĩ đầu tiên là Nguyễn Tiến Lương khoa Nhâm Thìn, Hồng Đức 1472.[7]

Trong thời kỳ Nho học phát triển, ở Lương Tài, theo thống kê chưa đầy đủ đã có tới gần 57 vị học giỏi và đỗ đạt cao từ Tiến sĩ trở lên. Có trên dưới 30 xã (thôn) có người đỗ Tiến sĩ như: Quảng Bố, Lĩnh Mai (xã Quảng Phú), Ngọc Trì, Cổ Lãm (xã Bình Định), Ngọc Quan (xã Lâm Thao), Phá Lãng, Dị Sử (Đạo Sử xã Phá Lãng - nay là thị trấn Thứa), Văn Xá (xã Phú Hoà), Trình Khê, Trung Chinh (xã Trung Chính), Lai Hạ (xã Lai Hạ), Đăng Triều (xã Trừng Xá), Thanh Lâm, An Trụ (xã An Thịnh), Tháp Dương (xã Trung Kênh), Lương Xá (xã Phú Lương), Nhất Trai (xã Minh Tân)…

Trong đó một số thôn có nhiều người đỗ đại khoa, tiêu biểu như: thôn Quảng Bố (xã Quảng Phú) có bốn người đỗ tiến sĩ, trong đó có dòng họ Nguyễn có ba người ở 3 đời. Thôn Văn Xá (xã Phú Hoà) có 5 Tiến sĩ. Thôn Lai Xá (xã Lai Hạ) có tám người. Thôn Ngọc Quan (xã Lâm Thao, tên cũ: xã Xuân Lan thuộc tổng Lâm Thao được biết đến là Thuận An thắng địa - Kinh Bắc danh hương) trong gần 200 năm khoa bảng (1717-1919) có 2 người đỗ đại khoa đều dòng họ Vũ (Hội nguyên Tiến sĩ Vũ Miên; tư cách thực sự của ông là Trạng nguyên nhưng xếp sau 2 vị khi thi Đình; ông vừa là Thủ khoa Nho học vừa là Tể tướng - Tế tửu Quốc sử quán Tổng tài và Ất khoa Tiến sĩ Vũ Chu làm Thái Nguyên tỉnh Bố chính sứ có công lao trong Khởi nghĩa Bãi Sậy), các con cháu Tế tửu Vũ Miên tới ngày nay vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp, như Bác sĩ, Giáo sư Vũ Văn Ngũ - nguyên Chủ nhiệm khoa Vi sinh y học Bệnh viện Bạch Mai,...Thôn Lương Xá (xã Phú Lương), có tới 13 người đỗ Tiến sĩ (1 Trạng nguyên là ông Vũ Giới, 1 Thám hoa, 3 Hoàng giáp và 8 người đỗ Tiến sĩ).

Trong những Tiến sĩ đã đỗ ở Lương Tài, nhiều người có những nét rất độc đáo.

Nguyễn Bạt Tuỵ (xã Phá Lãng) đỗ Tiến sĩ sau làm Thượng thư (quan cao nhất Triều đình - sau vua), để lại cho đời một tập thơ là "Nhị thập tri hiếu" (24 điều hiếu).

Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên - người xã Lai Hạ), người nổi tiếng về văn thơ đã lưu lại bài "Văn tế cá sấu", nhiều trường học đã lấy tên ông đặt tên cho trường.

Nguyễn Lệnh Nghi ở Thanh Lâm (xã An Thịnh) đỗ Tiến sĩ năm Mậu Tuất 1718, sau làm Thượng thư, tương truyền hồi nhỏ là người rất thông minh. Năm lên 9 tuổi, một lần ra sông tắm, ông cởi quần áo vắt lên cây thụ, bất ngờ có một viên quan to đi qua, thấy cậu bé trần truồng, hỏi thì nói là học trò, quan liền ra vế đối: "Thiên tàm cổ thụ vị y giả" (Ý: lấy cây cao nghìn tầm làm giá áo), cậu bé không cần phải nghĩ lâu đối ngay: "Vạn phái trường giang tác dục bồn" (Ý: Lấy sông dài muôn nhánh làm chậu tắm), quan chịu, cho là giỏi liền thưởng quà.

Hoàng Sĩ Khải, Tiến sĩ khoa thi 1544, sau làm Thượng thư bộ hộ kiêm tế tửu Quốc tử giám (Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám) (quê làng Lai Xá).

Nguyễn Đăng Triều, thôn Lĩnh Mai (xã Quảng Phú) từ nhỏ rất thông minh, hiếu học. Sau thi đỗ được làm "Hoài viên tượng quân chỉ huy sứ", đi đâu được ngồi đòn bát cống, chỉ kém vua có một đòn.

Nguyễn Toàn ở Tháp Dương (xã Trung Kênh) là người thuộc dòng họ có tiếng, tổ tiên nhiều đời là công hầu.

Rồi Lương Phụng Thìn, Vũ Cận (Lương Xá, xã Phú Lương) đã để lại nhiều bài thơ có giá trị.

Từ những năm 1522 có người đỗ Tiến sĩ khi tuổi còn rất trẻ như Đào Lâm đỗ lúc 18 tuổi tại khoa thi Mậu Tuất (1478).

Có người kiên trì học đến mức tuổi cao (vượt tuổi lên lão đầu tiên 50 tuổi) như Hoàng Sĩ Trạch (Lai Xá) đỗ năm Nhâm Tuất 1502, năm 53 tuổi. Phạm Vĩnh Truyền đỗ năm Bính Tuất 1526, lúc 53 tuổi. Nguyễn Hữu Nho đỗ năm Kỷ Sửu 1581 lúc 61 tuổi. Vũ Miễn (Ngọc Trì - xã Bình Định) đỗ năm Bính Thìn 1616 lúc ở tuổi 69. Có trường hợp con thi đỗ trước bố như: Nguyễn Văn Định (tức Nguyễn Văn Hiến ở Đặng Xá) đỗ lúc 20 tuổi, đó là năm Bính Tuất 1526, trái lại bố là Nguyễn Văn Diễn lại đỗ năm Ất Mùi 1535, đỗ sau con 9 năm.[8]

Có thể nói Lương Tài là huyện vốn có truyền thống hiếu học và có nhiều người học thành đạt từ xa xưa. Truyền thống đó được nối tiếp phát huy qua các triều đại, các triều vua, nhiều dòng họ có truyền thống học tập tốt, nhiều người thông minh, tài giỏi.

Trước đây ở các thôn (làng) đều có khu gọi là "Văn chỉ", nơi này có các bia đá ghi tên những người trong làng đỗ đạt cao; để hàng năm thờ cúng và chiêm ngưỡng. Nay sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá nên hầu như không thôn nào còn. Có chăng chỉ còn sót lại một số tấm bia bị thất lạc ở nơi nào đó. Nay địa phương tìm, đào được thì đưa về đình (hoặc chùa) để giữ lại làm kỷ niệm. Những bia ấy đều viết bằng chữ Hán (Nho) hoặc chữ Nôm.

Xây văn chỉ của thôn, xã, huyện…chứng tỏ người xưa rất coi trọng học hành. Coi trọng người làm nghề "Thầy giáo" "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" "Không thầy đố mày làm nên". Có lẽ đó cũng là nét truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, cha ông vậy.

Địa điểm tham quan du lịch

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số địa điểm tham quan du lịch tiêu biểu trên địa bàn huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh:

  • Đền thờ lưu niệm danh nhân Hàn Thuyên (thuộc thôn Lai Hạ, xã Lai Hạ, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Đây cũng là một di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu nhất của huyện Lương Tài cho đến ngày nay. Một di tích cấp Quốc gia được xếp hạng năm 1994. Nơi đây thờ cụ Hàn Thuyên, cụ có tên thật là Nguyễn Thuyên, cụ thuộc dòng dõi nhà quan, là một danh nhân khoa bảng triều Trần.[9]
  • Đình tổ nghề đúc đồng truyền thống Quảng Bố (tên gọi Nôm là Làng Vó) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, thờ ông tổ dậy nghề Nguyễn Công Nghệ, ngày hội làng được tổ chức thường niên vào ngày 23-8 Âm lịch hàng năm.
  • Đình làng thờ cụ tổ nghề đúc đồng truyền thống và Lăng mộ cụ ở thôn Quảng Bố, xã Quảng Phú
  • Cổng tam quan Đình làng Quảng Bố
    Cổng tam quan Đình làng Quảng Bố
  • Thủy đình của đình làng Quảng Bố
    Thủy đình của đình làng Quảng Bố
  • Đình làng Quảng Bố
    Đình làng Quảng Bố
  • Cổng vào Lăng mộ cụ tổ truyền nghề đúc đồng thôn Quảng Bố
    Cổng vào Lăng mộ cụ tổ truyền nghề đúc đồng thôn Quảng Bố
  • Mộ cụ tổ truyền nghề đúc đồng thôn Quảng Bố
    Mộ cụ tổ truyền nghề đúc đồng thôn Quảng Bố
  • Am Trinh Nghĩa: tại thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài; thờ Hoàng phi Nguyễn Thị Kim, phi của vua Lê Chiêu Thống, dựng năm 1804, trùng tu lớn năm 1848.
  • Khu di tích lịch sử văn hóa cấp nhà nước tại thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài.[10]

Lễ hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số lễ hội trên địa bàn huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh:

  • Ngày 4 / tháng Giêng (Âm lịch): Hội làng Vó (tức Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.
  • Ngày 13­-15 / tháng Giêng (Âm lịch): Hội làng Thau (Kim Thao) ở xã Lâm Thao, huyện Lương Tài.
  • Ngày 21-22 / tháng Giêng (Âm lịch): Lễ hội làng Giàng, thị trấn Thứa, huyện Lương Tài.
  • Ngày 2 / tháng 3 (Âm lịch): Lễ hội Truyền thống Chùa Làng Nhất Trai, xã Minh Tân, huyện Lương Tài.
  • Ngày 10 / tháng 2 (Âm lịch): Hội đình làng tứ thôn, lễ hội rước thành hoàng của 4 thôn Thận Trai, Đạm Trai, Hương Trai và An Cường, xã Minh Tân, huyện Lương Tài
  • Ngày 8 / tháng 4 (Âm lịch): Hội Đình Đám (nắp Dừa) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.
  • Ngày 23 / tháng 8 (Âm lịch): Giỗ tổ nghề đúc đồng Làng Vó (Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.[11]

Các lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của huyện Lương Tài nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung.

Các di tích lịch sử huyện Lương Tài

[sửa | sửa mã nguồn]
STT Tên di tích Địa điểm Ghi chú
1 Đình làng Bùi Thôn Bùi, thị Trấn Thứa
2 Chùa làng Phượng Trì Thôn Phượng Trì, thị Trấn Thứa
3 Chùa làng Đông Hương Thôn Đông Hương, thị Trấn Thứa
4 Chùa Vĩnh Long Thôn Đạo Sử, thị Trấn Thứa
5 Chùa Kim Đào Thôn Kim Đào, thị Trấn Thứa
6 Chùa Lộc Hồng Thôn Giàng, thị Trấn Thứa
7 Chùa Tân Linh Thôn Tân Dân, thị Trấn Thứa
8 Chùa làng Bùi Thôn Bùi, thị Trấn Thứa
9 Nhà thờ thiên chúa giáo Thôn Phượng Giáo, thị trấn Thứa
10 Đình làng Thanh Lâm Thôn Thanh Lâm, xã An Thịnh
11 Đình làng Lôi Châu Thôn Lôi Châu, xã An Thịnh
12 Đình làng Cường Tráng Thôn Cường Tráng, xã An Thịnh
13 Đình làng Cát Thủy Thôn Cát Thủy, xã An Thịnh
14 Đình làng Thanh Hà Thôn Thanh Hà, xã An Thịnh
15 Chùa Lâm Phúc Thôn Thanh Lâm, xã An Thịnh
16 Chùa làng Cường Tráng Thôn Cường Tráng, xã An Thịnh
17 Chùa làng Lôi Châu Thôn Lôi Châu, xã An Thịnh
18 Chùa Hưng Long Thôn Thanh Hà, xã An Thịnh
19 Chùa làng An Phú Thôn An Phú, xã An Thịnh
20 Chùa làng Cát Thủy Thôn Cát Thủy, xã An Thịnh
21 Nghè làng An Phú Thôn An Phú, xã An Thịnh
22 Nghè làng Lôi Châu Thôn Lôi Châu, xã An Thịnh
23 Miếu Làng Thanh Lâm Thôn Thanh Lâm, xã An Thịnh
24 Miếu làng An Trụ Thôn An Trụ, xã An Thịnh
25 Đình làng Lai Hạ Thôn Lai Hạ, xã Lai Hạ
26 Đình làng Thanh Khê Thôn Thanh Khê, xã Lai Hạ
27 Chùa Thiên Minh Thôn Lai Hạ, xã Lai Hạ
28 Chùa làng Bồng Lai Thôn Bồng Lai, xã Lai Hạ
29 Chùa làng Văn Phạm Thôn Văn Phạm, xã Lai Hạ
30 Chùa làng Thanh Khê Thôn Thanh Khê, xã Lai Hạ
31 Nhà thờ họ Phạm Văn Thôn Lai Hạ, xã Lai Hạ
32 Đình làng Nghĩa Hương Thôn Nghĩa Hương, xã Mỹ Hương
33 Đình làng An Mỹ Thôn An Mỹ, xã Mỹ Hương
34 Đình làng My Xuyên Thôn My Xuyên, xã Mỹ Hương
35 Chùa Khánh Vân Thôn Nghĩa Hương, xã Mỹ Hương
36 Chùa Linh Quang Thôn An Mỹ, xã Mỹ Hương
37 Chùa Phúc Âm Thôn An Mỹ, xã Mỹ Hương
38 Chùa Phúc Xuyên Thôn My Xuyên, xã Mỹ Hương
39 Nghè làng My Xuyên Thôn My Xuyên, xã Mỹ Hương
40 Đình làng Đạm Trai Thôn Đạm Trai, xã Minh Tân
41 Đình làng Hương Trai Thôn Hương Trai, xã Minh Tân
42 Đình làng An Cường Thôn An Cường, xã Minh Tân
43 Chùa Đông Nhất(Khánh Vân) Thôn Nhất Trai, xã Minh Tân
44 Chùa làng Đạm Trai Thôn Đạm Trai, xã Minh Tân
45 Chùa Kim Quang Thôn Hương Trai, xã Minh Tân
46 Chùa Phúc Sinh (Linh Quang) Thôn An Cường, xã Minh Tân
47 Chùa Thiên Quang Thôn Thận Trai, xã Minh Tân
48 Chùa Ngọc Trì Thôn Ngọc Trì, xã Bình Định
49 Chùa Cổ Hiền Thôn Cổ Lãm, xã Bình Định
50 Chùa Đại Bi Thôn Quảng Cầu, xã Bình Định
51 Chùa làng Tỉnh Ngô Thôn Tỉnh Ngô, xã Bình Định
52 Chùa Phúc Sinh Thôn Ngô Phần, xã Bình Định
53 Lăng họ Vũ Xuân Thôn Ngọc Trì, xã Bình Định
54 Đền làng Ngọc Trì Thôn Ngọc Trì, xã Bình Định
55 Nghè làng Ngọc Trì Thôn Ngọc Trì, xã Bình Định
56 Văn chỉ làng Cổ Lãm Thôn Cổ Lãm, xã Bình Định
57 Nhà thờ họ Vũ Thôn Ngọc Trì, xã Bình Định
58 Miếu làng Ngô Phần Thôn Ngô Phần, xã Bình Định
59 Đình làng Văn Xá Trong Thôn Văn Xá Trong, xã Phú Hòa
60 Đình làng Hương Chi Thôn Hương Chi, xã Phú Hòa
61 Đình làng Phương Mới Thôn Phương Mới, xã Phú Hòa
62 Đình làng Duyện Dương Thôn Duyện Dương, xã Phú Hòa
63 Đình làng Văn Xá Ngoài Thôn Văn Xá Ngoài, xã Phú Hòa
64 Chùa Ngọc Xá Thôn Phương Xá, xã Phú Hòa
65 Chùa Sùng Quang Thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa
66 Chùa Bảo Lâm Thôn Bà Khê, xã Phú Hòa
67 Chùa Vân Hoa Thôn Phú Văn Dưới, xã Phú Hòa
68 Chùa Hương Chi Thôn Hương Chi, xã Phú Hòa
69 Chùa làng Phương Mới Thôn Phương Mới, xã Phú Hòa
70 Chùa làng Phương Thanh Thôn Phương Thanh, xã Phú Hòa
71 Chùa làng Tĩnh Xá Thôn Tĩnh Xá, xã Phú Hòa
72 Chùa làng Phú Văn Trên Thôn Phú Văn Trên, xã Phú Hòa
73 Chùa làng Văn Xá Trong Thôn Văn Xá Trong, xã Phú Hòa
74 Chùa làng Văn Xá Ngoài Thôn Văn Xá Ngoài, xã Phú Hòa
75 Chùa làng Ngọc Thượng Thôn Ngọc Thượng, xã Phú Hòa
76 Chùa làng Duyện Dương Thôn Duyện Dương, xã Phú Hòa
77 Nghè làng Bà Khê Thôn Bà Khê, xã Phú Hòa
78 Lăng họ Đặng Thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa
79 Nhà thờ họ Nguyễn Thôn Phú Văn Trên, xã Phú Hòa
80 Nhà thờ họ Đoàn Thôn Ngọc Thượng, xã Phú Hòa
81 Am Trinh Nghĩa Thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa
82 Miếu làng Tĩnh Xá Thôn Tĩnh Xá, xã Phú Hòa
83 Đình làng Lĩnh Mai Thôn Lĩnh Mai, xã Quảng Phú
84 Đền làng Thanh Gia Thôn Thanh Gia, xã Quảng Phú
85 Chùa Bảo Khánh Thôn Quảng Bố, xã Quảng Phú
86 Chùa Pháp Thánh Thôn Phú Thọ, xã Quảng Phú
87 Chùa làng Tuyên Bá Thôn Tuyên Bá, xã Quảng Phú
88 Chùa Vĩnh Thái Thôn Thanh Gia, xã Quảng Phú
89 Chùa Tây Thiên Thôn Lĩnh Mai, xã Quảng Phú
90 Chùa làng Quảng Nạp Thôn Quảng Nạp, xã Quảng Phú
91 Đình làng Ngọc Khám Thôn Ngọc Khám, xã Lâm Thao
92 Chùa làng Ngọc Quan Thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao
93 Chùa làng Thái Trì Thôn Thái Trì, xã Lâm Thao
94 Chùa làng Lâm Thao Thôn Lâm Thao, xã Lâm Thao
95 Chùa Bảo Tháp Thôn Kim Thao, xã Lâm Thao
96 Chùa Ngọc Khánh Thôn Ngọc Khám, xã Lâm Thao
97 Đình làng Trung Chinh Thôn Trung Chinh, xã Trung Chính
98 Đình làng Thiên Đức Thôn Thiên Đức, xã Trung Chính
99 Đình làng Đào Xá Thôn Đào Xá, xã Trung Chính
100 Đình làng Chinh Phú Thôn Chinh Phú, xã Trung Chính
101 Đình làng Lai Đông Thôn Lai Đông 1+2+3, xã Trung Chính
102 Đình làng Thiên Phúc Thôn Thiên Phúc, xã Trung Chính
103 Đình làng Trình Khê Thôn Trình Khê + Thanh Dương, xã Trung Chính
104 Đình làng Thiên Lộc Thôn Thiên Lộc, xã Trung Chính
105 Chùa Hộ pháp Thôn Đào Xuyên, xã Trung Chính
106 Chùa làng Trung Chinh Thôn Trung Chinh, xã Trung Chính
107 Chùa làng Đào Xuyên Thôn Đào Xuyên, xã Trung Chính
108 Chùa Thiên Đức Thôn Thiên Đức, xã Trung Chính
109 Chùa Hưng Long Thôn Đào Xá, xã Trung Chính
110 Chùa Khánh Vân Thôn Chinh Phú, xã Trung Chính
111 Chùa làng Ấp Ngoài Thôn Ấp Ngoài, xã Trung Chính
112 Chùa làng Ấp Dừa Thôn Ấp Dừa, xã Trung Chính
113 Chùa làng Lai Đông Thôn Lai Đông 1+2 + 3, xã Trung Chính
114 Chùa Thiên Phúc Thôn Thiên Phúc, xã Trung Chính
115 Chùa Mạ Xá Thôn Trình Khê + Thanh Dương, xã Trung Chính
116 Chùa làng Đan Quế Thôn Đan Quế, xã Trung Chính
117 Chùa làng Thiên Lộc Thôn Thiên Lộc, xã Trung Chính
118 Chùa làng Tuần La Thôn Tuần La, xã Trung Chính
119 Nghè làng Đào Xá Thôn Đào Xá, xã Trung Chính
120 Miếu làng Đào Xá Thôn Đào Xá, xã Trung Chính
121 Nhà thờ Thiên Chúa Giáo Thôn Nghĩa La, xã Trung Chính
122 Nhà thờ Thiên Chúa Giáo Thôn Lai Tê, xã Trung Chính
123 Đình làng Cáp Hạ Thôn Cáp Hạ, xã Trung Kênh
124 Đình làng Tháp Dương Thôn Tháp Dương, xã Trung Kênh
125 Đình làng Lai Nguyễn Thôn Lai Nguyễn, xã Trung Kênh
126 Chùa Mục Đồng Thôn Tảo Hoà, xã Trung Kênh
127 Chùa làng Tháp Dương Thôn Tháp Dương, xã Trung Kênh
128 Chùa làng Quan Kênh Thôn Quan Kênh, xã Trung Kênh
129 Nghè làng Cáp Trên Thôn Cáp Trên, xã Trung Kênh
130 Đình làng Hữu Ái Thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng
131 Chùa làng Tam Sơn Thôn Tam Sơn, xã Tân Lãng
132 Chùa làng Ngọc Cục Thôn Ngọc Cục, xã Tân Lãng
133 Chùa làng Hữu Ái Thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng
134 Chùa làng Lạng Khê Thôn Lạng Khê, xã Tân Lãng
135 Nhà thờ Thiên Chùa Giáo Thôn Ngọc Cục, xã Tân Lãng
136 Nhà thờ Thiên Chùa Giáo Thôn Tử Nê, xã Tân Lãng
137 Nhà thờ Thiên Chùa Giáo Thôn Bái Giang, xã Tân Lãng
138 Nhà thờ Thiên Chùa Giáo Thôn Hương La, xã Tân Lãng
139 Đình làng Vĩnh Trai Thôn Vĩnh Trai, xã Trừng Xá
140 Chùa Văn Quang Thôn Đăng Triều, xã Trừng Xá
141 Chùa Linh Quang Thôn Đỉnh Dương, xã Trừng Xá
142 Chùa Phúc Thắng Thôn Vĩnh Trai, xã Trừng Xá
143 Chùa Kim Quang Thôn Nhị Trai, xã Trừng Xá
144 Chùa Đại Khánh (Lai Ứng) Thôn Trừng Xá, xã Trừng Xá
145 Đình làng Bích Khê Thôn Bích Khê, xã Phú Lương
146 Đình làng Lạng Dương Thôn Lạng Dương, xã Phú Lương
147 Đình làng Phú Lâu Thôn Phú Lâu 1 + 2, xã Phú Lương
148 Chùa làng Lạng Dương Thôn Lạng Dương, xã Phú Lương
149 Chùa Bảo Lâm Thôn Phú Lâu 1+2, xã Phú Lương
150 Chùa làng Lương Xá Thôn Lương Xá, xã Phú Lương
151 Chùa làng Bích Khê Thôn Bích Khê, xã Phú Lương
152 Miếu làng Phú Lâu Thôn Phú Lâu 1+2, xã Phú Lương
153 Phủ Thờ Mẫu Thôn Phú Lâu 1+2, xã Phú Lương
154 Nhà thờ Thiên Chúa Giáo Thôn Thọ Ninh, xã Phú Lương
Tổng số di tích huyện Lương Tài: 154 di tích

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ sở hạ tầng

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Làng nghề truyền thống

[sửa | sửa mã nguồn]

Tri ân, tưởng niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Làng nghề

[sửa | sửa mã nguồn]

Các làng nghề truyền thống trước đây và làng nghề mới ở huyện Lương Tài:

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tổng cục Thống kê
  2. ^ “Tình hình thay đổi đơn vị hành chính ở huyện Lương Tài”. Sở nội vụ tỉnh Bắc Ninh.
  3. ^ Nghị định 68/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9 tháng 8 năm 1999 – “Về việc chia huyện Tiên Sơn, Gia Lương để tái lập các huyện Tiên Du, Tiên Sơn, Gia Bình và Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”.
  4. ^ Quyết định số: 113/QĐ-UBND ngày 12 tháng 2 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh - Về việc “Phê duyệt đồ án quy hoạch hệ thống hạ tầng, đường dây thông tin liên lạc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2030, định hướng đến năm 2050”.
  5. ^ “Lịch sử phát triển trường Trung học phổ thông Lương Tài”. Trường Trung học phổ thông Lương Tài - huyện Lương Tài - tỉnh Bắc Ninh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2018.
  6. ^ Sách: “Tôn Giáo Và Xã Hội Hiện đại”. Tác giả: Cao Huy Thuần. Nhà xuất bản Hồng Đức. Năm 2017.
  7. ^ Sách: "Đại Việt sử ký toàn thư". Nhiều tác giả. Nhà xuất bản Văn học. Năm 2017.
  8. ^ Sách: "Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 2: Nhân vật chí.". Tác giả: Phan Huy Chú. Nhà xuất bản Trẻ. Năm 2014.
  9. ^ Sách: “Di Tích Lịch sử Văn Hóa Việt Nam”. Nhiều tác giả. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Năm 2018.
  10. ^ Sách: “Các di tích lịch sử - văn hóa - tín ngưỡng nổi tiếng ở Việt Nam”. Nhiều tác giả: Nhóm Trí Thức Việt. Nhà xuất bản Lao động. Năm  2013.
  11. ^ Sách: “Lịch Lễ hội Việt Nam”. Tác giả: Đại Đức Thích Minh Nghiêm. Nhà Xuất Bản Thời Đại. Năm 2010.