Kimura Takuya
Kimura Takuya | |
---|---|
木村 拓哉 | |
Sinh | 13 tháng 11, 1972 Tokyo, Nhật Bản[1] |
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 1987 | –nay
Phối ngẫu | Kudō Shizuka (cưới 2000) |
Con cái | |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | J-pop |
Nhạc cụ | Hát, guitar, harmonica |
Hãng đĩa | |
Cựu thành viên |
Kimura Takuya (Nhật: 木村 拓哉 Hepburn: Kimura Takuya , sinh ngày 13 tháng 11 năm 1972) là một nam diễn viên, ca sĩ và người dẫn phát thanh người Nhật Bản. Anh được xem là một biểu tượng của Nhật Bản sau khi gặt hái thành công trong vai trò diễn viên. Anh còn là thành viên nổi tiếng của SMAP, một trong những nhóm nhạc nam bán đĩa chạy nhất ở châu Á.
Bộ phim truyền hình dài tập Long Vacation (1996), trong đó anh đảm nhận vai chính đầu tiên đã gặt hái thành công vang dội, làm ra đời cụm từ gọi là "hiện tượng Lon-bake". Anh được mệnh danh là "Ông hoàng rating",[2][3][4][5][6] khi các bộ phim truyền hình tiếp theo của anh tiếp tục có tỷ suất người xem (rating) cao và mỗi bộ phim đều trở thành hiện tượng xã hội sau khi được phát sóng. 5 trong số các tác phẩm của anh được liệt trong 10 bộ phim truyền hình được xem nhiều nhất ở Nhật Bản, trong đó cao nhất là bộ phim truyền hình Hero (2001). Anh còn đóng vai chính trong các bộ phim bom tấn, có thể kể đến Bushi no Ichibun (2006), Hero (2007) và Lâu đài bay của pháp sư Howl (vai trò diễn viên lồng tiếng, 2004).
Kimura còn nổi danh nhờ vai lồng tiếng Yagami Takayuki trong các trò chơi điện tử Judgement và Lost Judgement.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1987, ở tuổi 15, Kimura đã thử giọng để gia nhập Johnny & Associates, một công ty tài năng chuyên tuyển dụng và đào tạo các chàng trai trẻ trở thành ca sĩ và thành viên của các nhóm nhạc nam. Mùa thu năm 1987, 20 chàng trai trẻ (tính cả Kimura) được tập hợp thành một nhóm có tên The Skate Boys, ban đầu được thành lập với tư cách vũ công hỗ trợ cho một nhóm nhạc nam nổi tiếng, Hikaru Genji.[7] Tháng 4 năm 1988, nhà sản xuất Johnny Kitagawa đã chọn 6 trong số 20 chàng trai để thành lập một nhóm nhạc nam mới: "SMAP."[8]
Năm 2020, Kimura phát hành album solo đầu tiên mang tên "Go with the Flow". Album bao gồm các bài hát được các ban nhạc và nghệ sĩ nổi tiếng như [ALEXANDROS], Superfly, Makihara Noriyuki và Love Psychedelico sáng tác cho Kimura và đã ra mắt ở vị trí số 1 trên Oricon Albums Chart vào tuần phát hành.[9] Một tháng sau, anh tổ chức chuyến lưu diễn kéo dài 4 ngày ở cả Tokyo và Osaka mang tên "TAKUYA KIMURA Live Tour 2020 Go with the Flow". Buổi hòa nhạc được phát hành trên Blu-Ray và DVD vào ngày 8 tháng 7 năm 2020, đồng thời ra mắt ở vị trí số 1 trên Oricon Albums Chart.[10]
Ngày 20 tháng 5 năm 2021, lễ trao giải Weibo Starlight Awards 2020 được tổ chức trực tuyến. Kimura cùng với hai con gái của mình (Cocomi và Kōki) đã được trao giải cùng với các nghệ sĩ phương Tây như Katy Perry, Taylor Swift và Cổ Thiên Lạc.[11]
Kế đến anh phát hành album solo mang tên "Next Destination" vào ngày 19 tháng 1 năm 2022 (tiếp nối "Go with the Flow"). Album có bài hát mang tên "Mojo Drive", sản phẩm hợp tác giữa Kimura và nghệ sĩ nhạc city pop nổi tiếng Yamashita Tatsuro, do Yamashita muốn sáng tác một bài hát để tôn lên giọng nam trung của Kimura sau khi tham dự buổi hòa nhạc solo của anh vào tháng Hai.[12] Yamashita còn sáng tác hai bài hát khác là "Good Luck, Good Time" và "Morning Dew" cho album. Ngoài Yamashita, "Next Destination" còn có các bài hát do Suzuki Kyōka, Akashiya Sanma, Man with a Mission và Itoi Shigesato sáng tác.[13]
Diễn xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1988, Kimura có vai diễn đầu tay trong một bộ phim truyền hình Abunai Shonen III, cùng với các thành viên trong nhóm nhạc của mình. Sau khi xuất hiện trong một số bộ phim truyền hình, anh lần đầu tiên thu hút sự chú ý sau khi nhận được một vai trong bộ phim truyền hình có tỷ suất người xem cao là Asunaro Hakusho vào năm 1993. Cảnh anh ôm bạn diễn Ishida Hikari từ phía sau đã trở nên phổ biến ở Nhật Bản và sau này cảnh người đàn ông ôm một cô gái từ phía sau được đặt tên là "asunaro daki", nghĩa là "cái ôm của asunaro". Từ năm 1994, nam giới ở Nhật Bản bắt đầu bắt chước thời trang và phong cách của anh, khi mà ngay lập tức quần áo và các mặt hàng thời trang trở thành món đồ ăn khách (chiếc kính gọng đen dày mà anh đeo trong phim Asunaro Hakusho là một trong số đó). Hiện tượng này được gọi chung là "hội chứng Kimutaku". Anh đã giành được giải Ishihara Yūjirō cho nghệ sĩ mới cho màn thể hiện của mình trong Shoot (đây cũng là vai diễn điện ảnh đầu tiên của anh).
Anh có lần đầu đảm nhận vai chính trong Long Vacation (1996). Bộ phim được phát sóng vào tối thứ Hai hàng tuần, gặt hái thành công vang dội và là chương trình có tỷ suất người xem cao nhất năm đó, do đó trở thành một hiện tượng xã hội. Truyền thông nhận định rằng, "phụ nữ biến mất khỏi thành phố vào các ngày thứ Hai", chỉ ra lượng người xem lớn và mức độ say mê của bộ phim đối với phụ nữ ở Nhật Bản. Sau khi Kimura thủ vai một nghệ sĩ dương cầm trẻ tuổi, số nam thanh niên bắt đầu học piano tăng lên nhanh chóng. Tác động và ảnh hưởng văn hóa của bộ phim thường được gọi là "hiện tượng Lonvaca (ron-bake)". Đây cũng là một bước đột phá đối với sự nghiệp diễn xuất của Kimura, giúp anh ấy được công nhận và có lượng người hâm mộ đông đảo hơn.
Năm 2000, anh diễn vai chính trong bộ phim truyền hình Beautiful Life; tác phẩm trở thành bộ phim ăn khách, với tập cuối vượt qua mốc 40% tỷ suất hộ gia đình theo dõi và trở thành chương trình có tỷ suất người xem cao nhất trong khung giờ đó (9:00 tối Chủ nhật).[14] Năm 2001, Kimura đóng vai chính trong Hero, bộ phim truyền hình có tỷ suất người xem cao nhất mọi thời đại ở Nhật Bản và là chương trình duy nhất trong lịch sử có tất cả các tập đều đạt trên 30% tỷ suất hộ gia đình theo dõi.[15] Các bộ phim truyền hình tiếp theo, chẳng hạn như Good Luck!!, Pride và Engine, cũng có lượt theo dõi cao.[16] 5 bộ phim truyền hình thành công nhất của anh gồm: Hero (2001), Beautiful Life (2000), Love Generation (1997), Good Luck!! (2003) và Long Vacation (1996) có mặt trong 10 bộ phim truyền hình có tỷ suất người xem cao nhất lịch sử Nhật Bản.
Năm 2004, anh đóng một vai phụ trong bộ phim điện ảnh 2046 (được đề cử Cannes) và lần đầu tiên bước lên thảm đỏ của Liên hoan phim Cannes.[17] Kimura còn lồng tiếng cho Howl Pendragon, nhân vật chính trong Lâu đài bay của pháp sư Howl của Studio Ghibli năm 2004. Anh là nam diễn viên chính trong Bushi no Ichibun (2006). Mặc dù anh đã được đề cử cho nhiều giải thưởng danh giá cho Bushi no Ichibun (tính cả giải Viện hàn lâm Nhật Bản), công ty quản lý của anh là Johnny & Associates đã từ chối tất cả các đề cử,[18] mặc dù một số tổ chức vẫn công bố anh ấy là người chiến thắng, chẳng hạn như giải Điện ảnh Thể thao Tokyo, mà đứng đầu là Kitano Takeshi và Cinema Junpo. Nhờ thu về hơn 40,3 tỷ yên, bộ phim đã trở thành tác phẩm ăn khách nhất của đạo diễn Yamada Yoji trong suốt sự nghiệp trải dài 4 thập kỷ, cũng như trở thành bộ phim có doanh thu phòng vé cao nhất trong lịch sử Shochiku.
Trong Mugen no jūnin (2017), Miike Takashi đã chọn Kimura cho vai diễn này vì thấy nam diễn viên phù hợp do đời tư của Kimura và sự khác biệt của anh với các thành viên khác của nhóm nhạc SMAP. Ngoài ra, vì Kimura còn nổi tiếng trong cộng đồng người hâm mộ Nhật Bản trong hơn hai thập kỷ vào thời điểm bộ phim được thực hiện, nên anh thấy rằng sức hấp dẫn của mình sẽ thu hút một lượng lớn khán giả hơn.[19] Khi Miike hỏi đội ngũ của mình xem họ nghĩ gì về việc Kimura thủ vai Manji, đội đã phản ứng tiêu cực tin rằng anh sẽ không thể đóng Manji. Tuy nhiên, Miike vẫn thấy rằng nhờ kinh nghiệm đóng phim của Kimura, anh là người phù hợp để đóng vai chính trong phim.[20]
Vị đạo diễn chia sẻ rằng anh đã đích thân chọn Kimura, "một siêu sao chuyển đổi từ thời Showa sang thời Heisei," là "thành viên mạnh nhất thế giới của Băng Miike, trường chiến đấu Ittō-ryū trong ngành công nghiệp điện ảnh của chúng ta."[21] Kimura bày tỏ nhiều suy nghĩ về diễn xuất của mình trong vai Manji, chẳng hạn như cách anh xử lý lớp hóa trang và các phân cảnh hành động.[22] Tuy nhiên, Kimura dính phải một vết thương lớn lúc đang ghi hình, làm cho anh không thể đi lại trong nhiều ngày.[23] Sau cùng Mugen no jūnin được trình chiếu không tranh giải tại Liên hoan Cannes, đây là lần thứ hai Kimura xuất hiện tại sự kiện này.[24]
Năm 2021, có thông báo rằng Kimura sẽ đóng vai chính trong bộ phim truyền hình chuyển thể từ tác phẩm giật gân đề tài môi trường The Swarm của tác giả người Đức Frank Schätzing.[25] Bộ phim hiện đang trong giai đoạn hậu kỳ.
Năm 2022, Kimura được thông báo sẽ thể hiện vai nhân vật lịch sử Oda Nobunaga cùng với Ayase Haruka diễn vai Nohime trong The Legend and Butterfly, bộ phim kỷ niệm 70 năm thành lập Toei vào năm 2023.[26] Đây là lần đầu tiên Kimura đóng vai Nobunaga sau 25 năm, sau khi lần đầu thủ vai samurai thế kỷ 16 này trong bộ phim lịch sử "Nobunaga Oda: The Fool Who Takes The World" (1998) của đài TBS.[27] Phim dự kiến ra mắt vào ngày 27 tháng 1 năm 2023, do Ōtomo Keishi làm đạo diễn và Kosawa Ryota viết kịch bản. Ngày 6 tháng 11 năm 2022, Kimura xuất hiện trong trang phục của Nobunaga tại Lễ hội Gifu Nobunaga thường năm cùng với bạn diễn Itō Hideaki trên lưng ngựa.[28] Lễ hội đã thu hút nửa triệu người (nhiều hơn cả dân số thành phố) với nhiều người hy vọng có thể nhìn thấy Kimura.[29][30]
Truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Với tư cách thành viên của nhóm nhạc nam SMAP, anh từng là đồng MC của chương trình tạp kỹ hàng tuần SMAPxSMAP trong 20 năm cho đến khi nhóm tan rã vào dịp giao thừa năm 2016. Họ đã chào đón một số nhân vật nổi tiếng quốc tế như Michael Jackson,[31] Madonna và Lady Gaga[32] cũng như các vị khách mời người Nhật. Thỉnh thoảng anh cũng xuất hiện với tư cách khách mời trong các chương trình khác, chẳng hạn như trên Jimmy: The True Story of a True Idiot của Netflix và làm khách mời của nhiều chương trình tạp kỹ.
Kể từ năm 2003, Kimura làm MC cho một chương trình tạp kỹ thường niên mang tên Santaku cùng với diễn viên hài Akashiya Sanma để kỷ niệm ngày đầu năm mới.[33] Tuy nhiên vào năm 2017, chương trình chuyển sang phát sóng vào tháng 4 do SMAP chính thức tan rã vào đêm giao thừa năm trước.
Trò chơi
[sửa | sửa mã nguồn]Khi bắt đầu phát triển trò chơi hành động Judgement, các nhà phát triển tại Sega và Ryu Ga Gotoku Studio đã cân nhắc việc sử dụng một diễn viên nổi tiếng để thể hiện vai chính Yagami Takayuki.
Biên kịch Nagoshi Toshihiro sợ khán giả sẽ cáo buộc họ làm nhân vật bớt cá tính đi do danh tiếng của Kimura. Tuy nhiên, Kimura cởi mở với các đề xuất của đội ngũ và làm việc với các nhà phát triển để xây dựng nhân vật. Sega hài lòng với màn thể hiện của Kimura, lưu ý rằng anh cần số lượt thử ghi âm ít hơn nhiều so với dự đoán của họ. Một số câu thoại đã được viết lại để phù hợp hơn với cách truyền tải của Kimura, nhưng các biên kịch cam đoan rằng những thay đổi này sẽ không đi chệch khỏi tính cách của Yagami. Phần thoại của trò chơi được ghi âm theo trình tự thời gian để người chơi cảm thấy giọng nói của Kimura và nhân vật Yagami cùng phát triển trong cốt chuyện. Kimura rất thích diễn xuất trong trò chơi còn Nagoshi lưu ý về phản hồi nhanh chóng của Kimura trước các tin nhắn của mình. Trái ngược với các tựa game Yakuza trước, trò chơi không được thu âm cho đến khi toàn bộ kịch bản được viết xong, qua đó giúp ích cho Kimura và các diễn viên khác.[34]
Do danh tiếng của Kimura gắn liền với Judgement, người hâm mộ Nhật Bản thường đặt biệt danh cho trò chơi là Kimutaku ga Gotoku (キムタクが如く nghĩa là "Hệt như KimuTaku") với "Kimutaku" là viết tắt của Kimura Takuya trong khi "Gotoku" ("Hệt như" trong tiếng Nhật) nhằm chỉ các tựa game Yakuza gốc của Nhật Bản.[35]
Kimura đã tái thể hiện vai Yagami trong phần tiếp theo của Judgement, mang tên Lost Judgement (phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 2021). Anh thông báo phần tiếp theo trong một sự kiện mang tên "Judgment Day" cùng với tác giả loạt game Nagoshi Toshihiro.[36]
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Kimura kết hôn với ca sĩ Kudō Shizuka vào năm 2000. Họ có hai con gái: Cocomi (sinh ngày 1 tháng 5 năm 2001) và Kõki (sinh ngày 5 tháng 2 năm 2003).[37]
Hoạt động kinh doanh khác
[sửa | sửa mã nguồn]Chứng thực sản phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Với tư cách thành viên của SMAP, Kimura cùng với các đồng đội của mình từng là đại sứ cho tập đoàn viễn thông SoftBank. Anh còn nổi tiếng với vai trò là nguyên đại sứ thương hiệu cho nhãn hàng làm đẹp dành cho nam giới GATSBY của Nhật Bản, quảng cáo cho dòng sản phẩm Moving Rubber trứ danh của nhãn hàng.[38] Kimura từng làm đại sứ thương hiệu cho một số nhãn hàng nổi tiếng khác, chẳng hạn như Suntory, Levi's, LINE và Nikon.[39][40][41] Anh cũng được công chúng biết đến với vai chính trong một loạt quảng cáo cho Toyota, cùng với Kitano Takeshi và Hugh Jackman. Kimura và Kitano đóng vai Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi, trong khi Jackman đóng vai thủy thủ Marco Polo.[42] Cùng với Beyoncé, Kimura từng làm đại sứ thương hiệu cho nhãn hiệu thời trang Nhật Bản Samantha Thavasa.[43]
Kể từ năm 2021, Kimura hiện là đại sứ thương hiệu của McDonald's tại Nhật Bản,[44] và nhà sản xuất ô tô Nissan.[45] Năm 2021, anh hợp tác với Ray-Ban để sản xuất hai dòng sản phẩm Ray-Ban Aviators và Wayfarers đặc biệt, với tên viết tắt của anh được khắc bằng tay.[46][47]
Danh sách phim
[sửa | sửa mã nguồn]Điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa phim | Vai diễn | Ghi chú | Chú thích |
---|---|---|---|---|
1994 | Shoot! | Kubo Yoshiharu | Vai chính | |
1995 | Fly Boys, Fly | Ueda Jyunichiro | Vai chính | |
2004 | 2046 | Taku | Phim Hồng Kông | |
Lâu đài bay của pháp sư Howl | Howl (lồng tiếng) | Vai chính | ||
2006 | Bushi no Ichibun | Mimura Shinosuke | Vai chính | |
2007 | Hero | Kuryu Kohei | Vai chính | |
2009 | Và anh đến trong cơn mưa | Shitao | Phim Pháp | |
2010 | Redline | JP (lồng tiếng) | Vai chính | |
Space Battleship Yamato | Kodai Susumu | Vai chính | ||
2015 | Hero | Kuryu Kohei | Vai chính | |
2017 | Mugen no jūnin | Manji | Vai chính | |
2018 | Killing for the Prosecution | Mogami Takeshi | Vai chính | |
2019 | Khách sạn Masquerade | Nitta Kōsuke | Vai chính | [48] |
2020 | Doraemon: Nobita và những bạn khủng long mới | Jill (lồng tiếng) | [49] | |
2021 | Đêm Masquerade | Nitta Kōsuke | Vai chính | [48] |
2023 | The Legend and Butterfly | Oda Nobunaga | Vai chính | [50] |
Kimi-tachi wa Dō Ikiru ka | Maki Shoichi (lồng tiếng) | Xuất hiện đặc biệt | [51] |
Truyền hình (vai trò diễn viên)
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa chương trình | Đài phát sóng | Vai diễn | Ghi chú | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
1988–1989 | Abunai Shonen III | TV Tokyo | Chính anh | Vai chính | |
1990 | Jikan Desuyo | TBS | |||
Ototo | TBS | Hekiro | |||
1991 | Rugby Yattete Yokatta | TBS | Hirai Masaki | ||
Romeo and Juliet | TV Tokyo | Romeo | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | ||
Sukinanoni | TV Tokyo | Tamura Eiichi | |||
1992 | Matenro wa Barairo ni | TV Tokyo | Misawa Noboru | Phim truyền hình ngắn tập | |
Tales of the Unusual: season 3 | Fuji TV | Inakamono | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | ||
Shojo Ijyou Shounen Miman | TV Asahi | Misawa Yuichi | |||
Motto, Tokimeki wo | NTV | Chính anh | Vai khách mời | ||
Sono toki Heartwa Nusumareta | Fuji TV | Katase Masato | |||
1993 | Boku dake no Megami | TBS | Takeshi | ||
Izu no Odoriko | TV Tokyo | Kawasaki | Phim truyền hình ngắn tập | ||
Asunaro Hakusho | Fuji TV | Toride Osamu | |||
1994 | Kimi ni Tsutaetai | TBS | Yamashita Toru | ||
Wakamono no Subete | Fuji TV | Ueda Takeshi | |||
1995 | Kimi wa Toki no Kanata e | TV Asahi | Matsudaira Motoyasu | Vai chính; phim điện ảnh truyền hình | |
Jinsei wa Jyojyoda | TBS | Ooue Kazuma | |||
Tales of the Unusual: Spring 1995 | Fuji TV | Oshimoto | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | ||
1996 | Furuhata Ninzaburo | Fuji TV | Hayashi Isao | Tập 17 | |
Long Vacation | Fuji TV | Sena Hidetoshi | Vai chính | ||
Concerto | TBS | Takakura Kakeru | |||
1997 | Boku ga Boku de Arutame ni | Fuji TV | Kurosawa Riki | Vai chính | |
Gift | Fuji TV | Hayasaka Yukio | Vai chính | ||
Ii Hito | Fuji TV | Hayasaka Yukio | Vai khách mời | ||
Love Generation | Fuji TV | Katakiri Teppei | Vai chính | ||
1998 | Oda Nobunaga: Tenka wo Totta Baka | TBS | Oda Nobunaga | Vai chính; phim điện ảnh truyền hình | |
Nemureru Mori | Fuji TV | Ito Naoki | Vai chính | ||
1999 | Furuhata Ninzaburo vs SMAP | Fuji TV | Chính anh | ||
Tales of the Unusual: Spring 1999 | Fuji TV | Kimio | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | ||
Konya wa Eigyouchu | Fuji TV | Chính anh | Vai chính | ||
2000 | Beautiful Life | TBS | Okishima Shuji | Vai chính | |
Densetsu no Kyoushi | NTV | Mizutani Yoji | Vai khách mời; tập 11 | ||
Food Fight | NTV | Kyutaro (lồng tiếng) | |||
2001 | Hero | Fuji TV | Kuryu Kohei | Vai chính | |
Chūshingura 1/47 | Fuji TV | Horibe Yasube | Vai chính; phim điện ảnh truyền hình | ||
2001 | Tales of the Unusual: SMAP Special | Fuji TV | Yunomoto Naoki | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | |
2002 | Sora Kara Furu Ichioku no Hoshi | Fuji TV | Katase Ryo | Vai chính | |
2003 | Good Luck!! | TBS | Shinkai Hajime | Vai chính | |
2004 | Pride | Fuji TV | Satonaka Haru | Vai chính | |
X'smap | Fuji TV | Ajii | Vai chính | ||
2005 | Engine | Fuji TV | Shinzaki Jiro | Vai chính | |
2006 | Saiyūki | Fuji TV | Genyokudaiou | Vai khách mời; tập 1 | |
Hero SP | Fuji TV | Kuryu Kohei | Vai chính; phim điện ảnh truyền hình | ||
2007 | Karei naru Ichizoku | TBS | Manpyo Teppei | Vai chính | |
2008 | Change! | Fuji TV | Keita Asakura | Vai chính | |
2009 | Goro's Bar | TBS | Takuya | Vai khách mời | |
Mr. Brain | TBS | Tsukumo Ryusuke | Vai chính | ||
Kochi Kame | TBS | Takubo | Vai khách mời; tập 8 | ||
2010 | Tsuki no Koibito Moon Lovers | Fuji TV | Hazuki Rensuke | Vai chính | |
Dokutomato Satsujin Jiken | TV Asahi | Chính anh | Vai chính | ||
2011 | Antartica | TBS | Kuramochi Takeshi | Vai chính | |
2012 | Priceless | Fuji TV | Kindaichi Fumio | Vai chính | |
2013 | Furuhata vs SMAP The Aftermath | Fuji TV | Chính anh | Vai chính | |
Andō Lloyd: A.I. knows Love? | Fuji TV | Ando Roido | Vai chính | ||
2014 | Oretachi ni Asu wa aru | Fuji TV | Chính anh | Vai chính | |
Sazae-san | Fuji TV | Chính anh (lồng tiếng) | Tập 7148: "Recipe for a Smile" | ||
Miyamoto Musashi | TV Asahi | Miyamoto Musashi | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | ||
Gokuaku Gambo | Fuji TV | Kuryu Kohei | Vai khách mời; tập 11 | ||
Hero 2 | Fuji TV | Kuryu Kohei | Vai chính | ||
2015 | I'm Home | TV Asahi | Ieji Hisashi | Vai chính | |
2017 | A Life: A Love | TBS | Okita Kazuaki | Vai chính | |
2018 | BG Personal Bodyguard - Mùa 1 | TV Asahi | Shimazaki Akira | Vai chính | |
Jimmy: The True Story of a True Idiot | Netflix | Diễn viên hài | Vai khách mời | ||
2019 | La Grand Maison Tokyo | TBS | Obana Natsuki | Vai chính | |
2020 | BG Personal Bodyguard - Season 2 | TV Asahi | Shimazaki Akira | Vai chính | |
Kyojo | Fuji TV | Kazama Kimichika | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | [52] | |
2021 | Kyojo 2 | Fuji TV | Kazama Kimichika | Vai chính; phim truyền hình ngắn tập | [52] |
2022 | 10 Count to the Future | TV Asahi | Kirisawa Shōgo | Vai chính | [53] |
2023 | The Swarm | Hulu | Mifune | [54] | |
Kazama Kimichika: Kyojo Zero | Fuji TV | Kazama Kimichika | Vai chính | [52] |
Truyền hình (vai trò cá nhân)
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tự chương trình | Vai trò | Ghi chú |
---|---|---|---|
1995–2015 | Sanma&SMAP | Chính anh (dẫn chính) | Truyền hình đặc biệt; 21 tập |
1996–2016 | SMAPxSMAP | Chính anh (dẫn chính, đầu bếp, biểu diễn)[31] | |
2000–2001 | TV's High | Chính anh | Dẫn chính |
2001–2015 | SmaStation | Chính anh | Vai khách mời |
2003–present | SanTaku | Chính anh (dẫn chính) | Truyền hình đặc biệt; 13 tập |
2007–2016 | Baby Smap | Chính anh (dẫn chính) |
Phát thanh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa chương trình | Vai trò | Ghi chú |
---|---|---|---|
1995–2018 | What's Up SMAP | Chính anh (dẫn chính) | [55] |
2018–present | Kimura Takuya: FLOW | Chính anh (dẫn chính) | [55][56] |
Trò chơi video
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa game | Vai diễn | Ghi chú |
---|---|---|---|
2018 | Judgment | Yagami Takayuki | Vai chính[57] |
2021 | Lost Judgment | Yagami Takayuki | Vai chính[58] |
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Tổ chức | Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Giải Ruy băng xanh | 2006 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bushi no Ichibun | Hủy đề cử | |
Broadcasting Culture Fund Award | 2000 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Beautiful Life | Đoạt giải | [59] |
Giải Elan d'Or | 1994 | Diễn viên mới xuất sắc nhất | Shoot! | Đoạt giải | |
Galaxy Award | 1995 | Diễn xuất cá nhân | Wakamono no Subete | Đoạt giải | |
Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản | 2006 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bushi no Ichibun | Hủy đề cử | |
Hochi Film Award | 2021 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Đêm Masquerade | Đoạt giải | |
Japan Film Awards | 2006 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bushi no Ichibun | Đề cử | [60] |
2011 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Nankyoku Tairiku | Đoạt giải | ||
Hiệp hội các nhà hóa trang Nhật Bản | 1994 | Nghệ sĩ hóa trang xuất sắc nhất | – | Đoạt giải | [61] |
1995 | Nghệ sĩ hóa trang xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
1996 | Nghệ sĩ hóa trang xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
1997 | Nghệ sĩ hóa trang xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
1998 | Nghệ sĩ hóa trang xuất sắc nhất (Đại sảnh Danh vọng) | Đoạt giải | |||
Nikkan Sports Drama Grand Prix | 1998 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Love Generation | Đoạt giải | |
1999 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Beautiful Life | Đoạt giải | ||
2001 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hero | Đoạt giải | ||
2003 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Good Luck!! | Đoạt giải | ||
2008 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Change! | Đoạt giải | ||
2012 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Priceless | Đoạt giải | ||
2013 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Ando Lloyd: A.I. knows Love? | Đoạt giải | ||
Nikkan Sports Film Awards | 1994 | Giải Yujiro Ishihara cho nghệ sĩ mới | Shoot! | Đoạt giải | [62] |
2006 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bushi no Ichibun | Đoạt giải | ||
Seoul Drama Awards | 2007 | Diễn xuất (vai chính) xuất sắc nhất | Karei naru Ichizoku | Đoạt giải | |
Giải Viện Hàn lâm Truyền hình Nhật Bản | 1994 | Trang phục đẹp nhất | Wakamono no Subete | Đoạt giải | [63] |
1995 | Trang phục đẹp nhất | Jinsei wa Jojo da | Đoạt giải | ||
1996 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Long Vacation | Đoạt giải | ||
1996 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concerto | Đoạt giải | ||
1997 | Dàn diễn viên xuất sắc nhất | Gift | Đoạt giải | ||
1997 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Love Generation | Đoạt giải | ||
1998 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Nemureru Mori | Đoạt giải | ||
1999 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Beautiful Life | Đoạt giải | ||
2001 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hero | Đoạt giải | ||
2002 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Sora Kara Furu Ichioku no Hoshi | Đoạt giải | ||
2005 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Engine | Đề cử | ||
2007 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Karei naru Ichizoku | Đoạt giải | ||
2008 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Change! | Đoạt giải | ||
2009 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Mr. Brain | Đề cử | ||
2012 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Priceless | Đoạt giải | ||
2014 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hero 2 | Đoạt giải | ||
2019 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Grand Maison Tokyo | Đoạt giải | [64] | |
Tokyo Sports Film Awards | 2006 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bushi no Ichibun | Đoạt giải | |
TV Life Annual Drama Grand Prix | 1996 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Long Vacation | Đoạt giải | |
1997 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Gift | Đoạt giải | ||
1997 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Love Generation | Đoạt giải | ||
2000 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Beautiful Life | Đoạt giải | ||
2001 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hero | Đoạt giải | ||
TV Navi Drama of the Year | 2007 | Diễn xuất (vai chính) xuất sắc nhất | Karei naru Ichizoku | Đoạt giải | |
2013 | Diễn xuất (vai chính) xuất sắc nhất | Ando Lloyd: A.I. knows Love? | Đoạt giải | ||
TV Station Drama Awards | 2000 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Beautiful Life | Đoạt giải | |
2001 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hero | Đoạt giải | ||
NAVGTR Awards | 2019 | Diễn xuất chính trong phim truyền hình xuất sắc nhất | Judgment | Đề cử | [65] |
Famitsu Dengeki Game Awards | 2021 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Lost Judgment | Đoạt giải | [66] |
Ấn phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]- Kai-Ho-Ku (24 tháng 4 năm 2003) ISBN 978-4087803778
- Kai-Ho-Ku 2 (30 tháng 9 năm 2011) ISBN 978-4087806137
- Kimura Takuya (1996) ISBN 978-4533026430
- Percentage (11 tháng 11 năm 2006) ISBN 978-4838717262
- Kimura Takuya x Men's Non-No Endless (30 tháng 9 năm 2011) ISBN 978-4087806144
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “SMAP member profiles” (bằng tiếng Nhật). Johnny's net. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2023.
- ^ Henry Lau (5 tháng 8 năm 2022). “How Takuya Kimura became one of East Asia's best-loved stars: from era-defining Japanese boy band SMAP and beloved TV drama Love Generation, to style icon and endorsement king”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2023.
- ^ Justin, Alexandra Convento (31 tháng 7 năm 2020). “12 Iconic Takuya Kimura Dramas to Watch on Viu” (bằng tiếng Anh). Metro Style. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2023.
- ^ “【SMAPノムコウ-KANSHAして-】キムタク結婚、戦略と内助の功で人気維持” [[SMAP Nomukou - KANSHA Shite -] Hôn nhân của KimuTaku duy trì sự nổi tiếng của anh thông qua các chiến lược và sự giúp đỡ từ bên trong]. Sanspo (bằng tiếng Nhật). 29 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “キムタク、草ナギ抑え1月期民放ドラマ視聴率暫定1位...SMAP解散後の初仕事” [KimuTaku nắm giữ Nagi Kusanagi trong bảng xếp hạng phim truyền hình thương mại tháng 1 tạm thời... Công việc đầu tiên sau khi SMAP tan rã]. Hochi (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “キムタク 解散後初ドラマで初外科医 「A LIFE~愛しき人~」/デイリースポーツ online” [Bộ phim truyền hình đầu tiên của KimuTaku sau khi giải tán nhóm SMAP và vai bác sĩ phẫu thuật đầu tiên trong "A LIFE ~ I love you ~"]. Daily Sports (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “SMAP”. Japan-Zone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2022.
- ^ “SMAPの前身「スケートボーイズ」に所属していた豪華メンバーたち” [Dàn thành viên tuấn tú của Skate Boys (tiền thân của SMAP)]. Excite News (bằng tiếng Nhật). Nikkan Taishu. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
- ^ “2020年01月06日~2020年01月12日 オリコン週間 アルバムランキング” [Bảng xếp hạng Oricon (tuần từ 6 tháng 1 năm 2020 đến 12 tháng 1 năm 2020)]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “TAKUYA KIMURA Live Tour 2020 Go with the Flow | 木村拓哉”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “微博星耀盛典頒獎禮 木村父女齊得獎 古天樂蟬聯年度影響力演員兼獲名人堂” [Lễ trao giải Weibo Starlight Awards: Hai cha con Kimura cùng giành giải, Cổ Thiên Lạc giành giải nam diễn viên giàu ảnh hưởng thường niên và được ghi danh vào Đại sảnh Danh vọng] (bằng tiếng Trung). Minh Báo. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
- ^ Lim Yian Lu (5 tháng 10 năm 2021). “Takuya Kimura to release second solo album, Next Destination, in January”. Yahoo (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉 ニューアルバム「Next Destination」スペシャルサイト” [Album mới 'Next Destination' của Kimura Takuya]. takuya-kimura.jp (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
- ^ “Housemaid drama series logs highest rating in nearly 12 years”. Japan Economic Newswire (bằng tiếng Nhật).
- ^ “『HERO』、全話30%超の視聴率を達成 平均視聴率も新記録” ['HERO' đạt tỷ suất người xem trên 30%, lập kỷ lục mới về tỷ suất người xem trung bình]. TV Drama.db (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 3 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “平均視聴率ランキングA(平均視聴率18%以上)” [Lượt rating trung bình của khán giả hạng A (rating trung bình từ 18% trở lên)]. 003.upp.so-net (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Film of the day”. Evening Gazette (bằng tiếng Nhật). tr. 22.
- ^ “Kimutaku Declines Academy Nomination” (bằng tiếng Anh). Japan Zone. 20 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Macias, Patrick (10 tháng 11 năm 2017). “INTERVIEW: Takashi Miike on "Blade of the Immortal", the Magic of Manga, and Directing 100 Films”. Crunchyroll (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Couch, Aaron (8 tháng 11 năm 2017). “'Blade of the Immortal' Director Wishes His Violent Characters Could Just Get Along” (bằng tiếng Anh). The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2023.
- ^ Loo, Egan (5 tháng 10 năm 2015). “Kimutaku Stars in Takashi Miike's Blade of the Immortal Film”. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Blade of the Immortal (Blu-ray). Warner Bros. 2018.
- ^ Hodgkins, Crystalyn (6 tháng 1 năm 2016). “Takuya Kimura Injures Knee While Filming Blade of the Immortal Live-Action Film”. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “MUGEN NO JŪNIN - Festival de Cannes”. www.festival-cannes.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
- ^ Roxborough, Scott (16 tháng 6 năm 2021). “Diverse International Cast for Big-Budget Euro Series 'The Swarm' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ Hsia, Heidi (23 tháng 7 năm 2022). “Takuya Kimura and Haruka Ayase star in "The Legend & Butterfly"”. Yahoo (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Takuya Kimura starring in the movie "The Legend & Butterfly" The second cast ban has been released! |MOVIE|J Storm”. J Storm OFFICIAL SITE (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Japan festival featuring superstar Kimura draws huge crowd, security tight”. Kyodo News+ (bằng tiếng Anh). 6 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Gifu festival featuring actor Takuya Kimura draws huge crowd”. The Japan Times (bằng tiếng Anh). 7 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Japanese historical parade draws almost half-a-million people”. NHK World (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
- ^ a b Kikuchi, Daisuke (25 tháng 12 năm 2016). “Love 'em or hate 'em, the end of SMAP marks the end of an era”. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Watch Lady Gaga's Appearance On Japanese Show SMAP×SMAP”. Gaga Daily (bằng tiếng Anh). 12 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021.
- ^ “さんタク” [Santaku]. Fuji.tv (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Johnston, Lachlan (14 tháng 2 năm 2010). “Exile Isekai: Interviews Yakuza Series Creator Toshihiro Nagoshi (Part 2) – Creating A New World” (bằng tiếng Anh). Otaquest. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “コンビニを破壊するキムタクが見られるのは「JUDGE EYES」だけ! "キムタクが如く"発売でキムタク祭り発生” [Chỉ trong "JUDGE EYES", bạn mới có thể thấy KimuTaku phá hủy một cửa hàng tiện lợi! Lễ hội Kimutaku diễn ra cùng thời điểm phát hành "Kimutaku ga Gotoku"]. Itmedia (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ McWhertor, Michael (7 tháng 5 năm 2021). “Yakuza team announces Judgment sequel Lost Judgment”. Polygon (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Lee, Jan (14 tháng 4 năm 2020). “Japanese star Takuya Kimura shares rare picture taken with singer wife Shizuka Kudo” (bằng tiếng Anh). The Straits Times. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉熱舞配俗樂 2011 GATSBY體香劑廣告影片爆笑登場” [Điệu nhảy nóng bỏng của Kimura Takuya với âm nhạc thô tục ra mắt trong video quảng cáo chất khử mùi GATSBY năm 2011] (bằng tiếng Trung). GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉CM 最新一覧 | CM bb-navi” [Danh sách CM mới nhất của Kimura Takuya | CM bb-navi]. CM総合サイト CM bb-navi (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2022.
- ^ “キムタクがナイコン持つCMに驚いた理由” [Lý do KimuTaku gây bất ngờ bằng CM với Nikon]. [写真撮影] All About (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 12 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “2019 LEVI'S® ENGINEERED JEANS™ X Takuya Kimura X Leah Dou”, Levi's (bằng tiếng Anh), Youtube, 4 tháng 2 năm 2019, Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2022, truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2022
- ^ Reileen (23 tháng 12 năm 2014). “Kimura Takuya, Beat Takeshi and Hugh Jackman for "ReBORN" CM”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2022.
- ^ Vĩnh Ngọc (29 tháng 11 năm 2008). “Beyonce Knowles 'nổi lửa' trên GQ”. Dân trí. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “『ちょいマック』に新たな旨辛が仲間入り?新たなレギュラー「スパビー」が新登場!そして大人気の「スパチキ」がリニューアル!” [Gia vị cay mới có "Choi Mac"? Một "Spaby" thông thường mới hiện đã được bày bán! Và "Spachiki" nổi tiếng đã được đổi mới!]. McDonald's (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ 株式会社インプレス (21 tháng 8 năm 2020). “日産、アンバサダー就任の木村拓哉氏が日産社員にエール” [Đại sứ của Nissan Kimura Takuya trước nhân viên Nissan]. Car Watch (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Ray-Ban x Takuya Kimura Sunglasses Limited to 200 Units”. MOSHI MOSHI NIPPON | もしもしにっぽん (bằng tiếng Anh). 19 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “レイバン×木村拓哉の「ウェイファーラー」ブラックフレームに新色カラーレンズを合わせた限定モデル” [Mẫu giới hạn "Wayfarer" của Ray-Ban x Kimura Takuya với gọng đen và mắt kính màu mới]. Fashion Press (bằng tiếng Nhật). 6 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021.
- ^ a b “『マスカレード・ナイト』大ヒットスタート!4日間で興収9億突破” ['Đêm hóa trang' là một bom tấn! Vượt 900 triệu doanh thu phòng vé sau 4 ngày]. Cinematoday (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “衝撃的な猿の姿で10年振りにアニメ映画出演!! 木村拓哉さんが「ドラえもん」に初参加!!” [Xuất hiện với vai một con khỉ gây sốc trong một bộ anime điện ảnh lần đầu tiên sau 10 năm!! Kimura Takuya lần đầu tham gia "Doraemon"!!] (bằng tiếng Nhật). Dora-world.com. 16 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉&綾瀬はるか:出演の東映70周年記念作「THE LEGEND & BUTTERFLY」総事業費は20億円 手塚治社長「判押すとき手が震えた」” [Kimura Takuya & Ayase Haruka: Tác phẩm 'THE LEGEND & BUTTERFLY' kỷ niệm 70 năm thành lập Toei với tổng kinh phí là 2 tỷ yên]. Mantan-web (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “「君たちはどう生きるか」ストーリー、声優、主題歌が明らかに” [Tiết lộ cốt truyện, các diễn viên lồng tiếng và bài nhạc chủ đề của Kimi-tachi wa Dō Ikiru ka]. Natalie (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.
- ^ a b c “北村匠海、「教場0」で木村拓哉のバディ役「ついに来たか」「教場II」衝撃ラストの真相が明らかに” [Kitamura Takumi đóng vai bạn thân của Kimura Takuya trong 'Kyojo 0']. eiga.com (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉主演『未来への10カウント』 山田杏奈、村上虹郎ら生徒役キャスト発表” [Công bố phim '10 Count to the Future' với sự tham gia của Kimura Takuya, Yamada Anna, Murakami Nijiro và các diễn viên sinh viên khác]. Crank-in! (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “木村拓哉、初海外ドラマ『THE SWARM』メインビジュアル解禁 世界各国の俳優陣が勢ぞろい” [Hình ảnh chính từ bộ phim truyền hình nước ngoài đầu tiên - "THE SWARM" của Kimura Takuya được tiết lộ. Các diễn viên từ khắp nơi trên thế giới tụ hội]. Oricon (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ a b “Kimura Takuya's radio program "What's UP SMAP!" is ending, new radio show "Kimura Takuya FLOW" to premiere on August 5th”. neotokyo2099.com (bằng tiếng Anh). 21 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ 木村拓哉, 木村拓哉 Flow-TOKYO FM 80 0MHz-. “木村拓哉 Flow - TOKYO FM 80.0MHz - 木村拓哉” [Kimura Takuya Flow - TOKYO FM 80.0MHz - Kimura Takuya]. 木村拓哉 Flow - TOKYO FM 80.0MHz - 木村拓哉 (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Project Judge Is Pretty Much Detective Kimura Takuya ga Gotoku, Here's Some Demo Footage”. Siliconera (bằng tiếng Anh). 11 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ Romano, Sal (8 tháng 5 năm 2021). “Lost Judgment announced for PS5, Xbox Series, PS4, and Xbox One”. Gematsu (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “第26回放送文化基金賞は『ビューティフルライフ』が受賞 本賞のほか男優、女優、脚本の各部門で受賞” ['Beautiful Life' giành giải thưởng Quỹ Văn hóa Phát thanh Truyền hình lần thứ 26. Ngoài giải thưởng chính, phim còn được trao giải ở các hạng mục nam, nữ diễn viên và kịch bản]. Tv.drama (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 6 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Japan Film Awards” [Giải thưởng nghệ thuật điện ảnh truyền hình Nhật Bản lần thứ 61]. LiveDoor (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Best Jeanist Award”. Best Jeans.com (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “30 November,1994 Nikkan Sports Film Award - Yujiro Ishihara New Artist Award”. Johnnys-net (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Television Drama Academy Awards”. Television.co.jp (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
- ^ “第103屆日劇學院賞=ドラマアカデミー賞-電視劇-得獎記錄-日本偶像劇場” [Giải thưởng Viện Hàn lâm truyền hình lần thứ 103 = Giải thưởng Viện Hàn lâm truyền hình-Phim truyền hình-Giải Kỷ lục-Nhà hát Thần tượng Nhật Bản]. dorama.info (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
- ^ “2019 Nominees”. NAVGTR (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2022.
- ^ @Genki_JPN. “Famitsu Game Awards 2021 Results!” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2023 – qua Twitter.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Hồ sơ chính thức trên Johnny's net Lưu trữ 2017-05-30 tại Wayback Machine
- Kimura Takuya trên IMDb
- Kimura Takuya tại từ điển bách khoa của Anime News Network
- Bài viết có bản mẫu Hatnote trỏ đến một trang không tồn tại
- Ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21
- Nhân vật còn sống
- Nam diễn viên lồng tiếng Nhật Bản
- Nam diễn viên điện ảnh Nhật Bản
- Thần tượng Nhật Bản
- Sinh năm 1972
- Giọng ca nam trung Nhật Bản
- Nam diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21
- Nam ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 20
- Nam diễn viên truyền hình Nhật Bản
- Nam diễn viên trò chơi video Nhật Bản
- Nam ca sĩ nhạc pop Nhật Bản