Họ Thủy thanh
Họ Thủy thanh | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
Bộ (ordo) | Không đặt (nhưng xem văn bản) |
Họ (familia) | Tetracentraceae A.C.Sm., 1945 |
Chi điển hình | |
Tetracentron Oliv. | |
Các chi | |
Xem văn bản |
Họ Thủy thanh (danh pháp khoa học: Tetracentraceae) là tên gọi để chỉ một họ thực vật có hoa. Họ này được nhiều nhà phân loại học công nhận.
Hệ thống APG II năm 2003 (không thay đổi so với hệ thống APG năm 1998) không công nhận một cách chính thức việc sử dụng tên gọi họ này và gộp loài duy nhất của họ vào trong họ Trochodendraceae. Cả APG và APG II đều cho phép tách riêng họ Tetracentraceae ra, không đặt cả hai họ như đã đề cập vào trong bộ nào và để chúng trong số các dòng dõi cơ sở của thực vật hai lá mầm thật sự. Việc chia tách như thế tạo ra hai họ, mỗi họ chỉ có 1 loài cây thân gỗ với họ Tetracentraceae là thủy thanh [1] (Tetracentron sinense) có ở tây nam Trung Quốc và Nepal, còn họ Trochodendraceae với côn lan[2] (Trochodendron aralioides) có ở Nhật Bản và miền bắc Đài Loan. Hai loài cây này chia sẻ đặc trưng chung là có chất gỗ (xylem) thứ cấp không có mạch, và đây là điều cực hiếm trong số thực vật hạt kín. Do lớp gỗ không có mạch gợi ý về tính nguyên thủy của hai loài này nên chúng luôn nhận được sự chú ý từ giới các nhà phân loại học. Gần đây, trong một bài viết năm 2005 tại sinhocvietnam, tiến sĩ Nguyễn Nghĩa Thìn cho rằng loài thủy thanh có mặt tại khu vực Sa Pa, Lào Cai nhưng chưa đặt tên tiếng Việt cho nó.
Tuy nhiên, từ hệ thống APG III năm 2009 trở đi, họ Côn lan (Trochodendraceae) được công nhận là họ duy nhất trong bộ Côn lan (Trochodendrales)[3], chứa cả Tetracentron sinense lẫn Trochodendron aralioides.
Hệ thống Cronquist năm 1981 chấp nhận cả hai họ và đặt chúng trong bộ Côn lan thuộc phân lớp Hamamelidae của lớp Magnoliopsida.
Hệ thống Dahlgren có sự lựa chọn tương tự trong cấp họ và bộ, nhưng đặt bộ này trong siêu bộ Rosanae của phân lớp Magnoliidae.
Hệ thống Dahlgren có sự lựa chọn tương tự trong cấp họ và bộ, nhưng đặt bộ này trong siêu bộ Rosanae của phân lớp Magnoliidae.
Hệ thống Engler phiên bản cập nhật năm 1964 đặt cả hai họ trong bộ lớn Magnoliales của phân lớp Archychlamydeae thuộc lớp Dicotyledoneae.
Hệ thống Wettstein cập nhật lần cuối năm 1935 hợp nhất cả hai loài trong họ Trochodendraceae và đặt trong bộ Polycarpicae (tên gọi cũ hơn của bộ Magnoliales) thuộc phân lớp Choripetalae của lớp Dicotyledones.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Tetracentraceae Lưu trữ 2007-03-10 tại Wayback Machine trong L. Watson và M.J. Dallwitz (1992 trở đi). Các họ thực vật có hoa Lưu trữ 2007-01-03 tại Wayback Machine: Miêu tả, minh họa, nhận dạng, thông tin tra cứu. Phiên bản: 3-5-2006. http://delta-intkey.com Lưu trữ 2007-01-03 tại Wayback Machine.
- Tetracentraceae trong Quần thực vật Trung Hoa
- Phân loại tại NCBI
- Tetracentraceae Liên kết tại csdl.tamu.edu Lưu trữ 2007-02-08 tại Wayback Machine
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tên gọi phiên âm từ tiếng Trung 水青, nghĩa là màu xanh của nước.
- ^ Tên gọi phiên âm từ tiếng Trung 昆欄.
- ^ Trochodendrales