Với sự đóng góp
Nguyên Thảo
Kẻ Jazz
0
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Ngu Yên xin nhờ các bạn đọc chuyển giùm link
này, bao gồm 129 văn bản (5 tạp chì, 110 bài viết
và 14 cuốn sách,) đến bằng hữu, nhất là các thế hệ
tuổi 30, 40, 50, và 60, xin cảm ơn.
https://independent.academia.edu/TienNguyen228
Xin bấm vào nút: Follow. Academia sẽ chuyển bài
đến tận email khi có bài mới lên mạng.
1
Tháng 10, 2021
Tạp chí Đọc và Viết giới thiệu cùng độc giả mạng
lưới âm nhạc
Kẻ Jazz
Nơi đầu tiên giới thiệu nhiều ca khúc
Jazz trong tiếng Việt. Chủ trương bởi Nguyễn Thảo
và Lê Vũ.
Số đặc bệt với sự đóng góp của mạng Kẻ Jazz
Về Kẻ Jazz: https://kejazz.today/about/
Tủ nhạc: https://kejazz.today/nhac-2/
2
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
MỤC LỤC
1- Thử Thách Với Great American Songbook.
James Marcus. Nguyễn Thảo dịch.
2- Tại Sao Chúng Ta Hát? Mario Benedetti. Thơ dịch
3- Bob Dylan. Nhạc Sĩ Nobel Văn Chương 2016 ?
4- Từ Hay Hát Đến Hát Hay. Phiếm Luận Phần I.
Nghe Và Đánh Giá Tiếng Hát. Phiếm Luận Phần II.
5- Leng Lui Tên Gọi Người Đẹp. Elaine Chiew.
Truyện Mã Lai, Dịch
6- Trước Khi Phù Sa, Là Bùn. Thơ
7- Hãy Vịn Âm Nhạc Mà Đứng Lên.
8- Bướm Đêm. Moths. Don Nigro. Kịch dịch.
9- Robert Schumann. Giới Thiệu và Dịch Nhạc.
10- Giới thiệu sách:
Brief Answers To The Big Questions,
Stephen Hawking.
Dịch từng kỳ tiếp theo:
“Có Thượng Đế Hay Không?”
3
Thử Thách
Với
Great American Songbook
James Marcus (from the New Yorker)
Dịch: Nguyễn Thảo
Cách đây một vài năm, vào thời điểm mà tôi
cảm thấy cần phải tìm hiểu thêm để khẳng định
giọng mình là baritone hay tenor. Việc này tôi cho
là khá khẩn trương, vì giọng hát baritone có bề dày
và đầy đặc, trong khi tenor là một loại giọng hát hay
thay hình đổi dạng, trong cũng như ngoài phạm vi
nghệ thuật. Một ví dụ là Rudy Vallee, một ca sĩ
tenor, hát những bài nhạc có nốt cao nghe lảo đảo
qua megaphone, sau đó ngôi vị của ông ta bị đè
bẹp bởi Bing Crosby, người mà một nhà phê bình
gọi là “giọng hát baritone mượt mà”. Neil Young
cũng là một tenor đã luyện hát giọng óc mang âm
hưởng như người hành tinh khác. Lẽ dĩ nhiên
không thể nào chê hai ca sĩ này. Có thể tôi sẽ phải
chấp nhận nếu giọng mình là tenor, như là một
thánh giá mình phải vác, thế thôi. Nên tôi cần
biết. Vì thế, một hôm tôi hỏi Karen, một người bạn
và cũng là ca sĩ phòng trà chuyên nghiệp, “Tôi là
loại nào?”
Chúng tôi đang đứng trong hành lang, và Karen
vừa dỗ đứa con trai ngủ xong. Để tránh thằng bé
thức dậy, chúng tôi chỉ thều thào, cố nén hơi, thật
ngược với lúc hát.
4
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
“Thường thì,” Cô ta nói, “người ta hát thoải mái
nhất trong phạm vi của giọng nói bình thường của
họ.”
“Như vậy thì giọng bình thường của tôi là gì?”
Tôi hỏi, hơi trầm giọng xuống trong lúc vẫn cố nói
nhỏ.
“Tôi cũng không biết nữa. Chắc bạn ở giữa
chừng chừng. Mà nhiều lúc, nó chỉ là thói quen
hơn là đặc tính của thanh quản.”
Thói quen? Như vậy thì câu hỏi tôi đã đặt ra
thật là quan trọng khi nói về chất giọng. Âm vực,
như cái Mũ Chọn Lựa của Harry Potter, tuy phân
loại baritone hay tenor chỉ như mới cào một lớp
mỏng trên mặt. Người Đức dùng hệ thống Fach để
phân chia giọng hát vào 25 loại giọng opera khác
nhau, dựa trên âm vực, màu sắc, tuổi tác, chiều
cao, thể hình, giọng nói, cũng như nhiều dữ kiện
khác. Chỉ cần nhìn thoáng đến hệ thống phân loại
này là tôi đã thấy chóng mặt. Có thể tôi có giọng
tenor như Jugendlicher Helden, cao và sáng rỡ,
sẵn sàng xuyên thủng qua những hòa âm bèo
nhèo chăng? Hoặc như là bariton của Kavalier, đầy
nam tính và có hơi kim khí, rất hợp cho vai trò
những kẻ ham sắc dục như Don Giovanni. Đằng
nào đi nữa, tôi chưa hề ao ước trở thành ngôi sao
opera; tôi chỉ muốn tìm hiểu về mình dựa trên căn
bản giọng hát mà thôi. Điều này đòi hỏi tôi phải lấy
lớp luyện giọng, và khi cô bạn của tôi cảm nhận ra
nỗi hoang mang khủng hoảng của tôi, mới động
lòng, nhận lời giúp tôi ghi danh vào một lớp thanh
nhạc.
Bill, ông thầy nhạc, dạy tôi trong căn phòng
ngay khu Chelsea, New York, chật cứng với những
đồ vật kỷ niệm, sách nhạc, và những đồ thể thao
linh tinh. Ông ta là một thầy luyện giọng, nhà soạn
5
nhạc cũng như tay đàn dương cầm điêu luyện mà
có lần, lúc chơi trong một quán rượu ở Manhattan,
đã được Frank Sinatra khen, “đẹp quá, đẹp
quá.”Ngoài ra, anh ta còn là học trò của soạn giả
Kay Swift, người phụ nữ đầu tiên viết nhạc cho
Broadway, và là tình nhân của George Gerschwin
cả chục năm – có nghĩa là tôi đã được đưa thẳng
vào ngay trung tâm của the Great American
Songbook. Cứ như là mình có một người bạn
quen với một người mà người đó quen biết
Thượng Đế. Nếu so sánh này nghe có vẻ phạm
thượng thì ta cũng nên xét lại vai trò nhạc
American Songbook trong nền văn hóa của đất
nước này. Ta không tự nhiên mà gọi đó là tiêu
chuẩn nếu không vì những ca khúc mang tính thẩm
mỹ phổ quát và tâm tình sống động gần gũi với
thính giả Mỹ. Đó là những ca khúc rất đẹp, và gọn
gàng vừa đủ, chỉ cần một câu ngắn đã có thể làm
cho con tim phải giao động, rung cảm.
Những bài học vỡ lòng đều toàn là tập giọng,
Bill ngồi trước cây dương cầm và tôi đứng bên
cạnh. Ông bắt tôi tập hát những chuỗi nguyên âm,
tạo những thay đổi hình thể bên trong miệng,
những âm E-U-E-A-E-O. Ông bắt tôi ngậm một cái
ống hút và hát, rồi cắn một viên kẹo giữa hai hàm
răng và hát. Thỉnh thoảng, ông bảo tôi hát nhưng
phải cúi gập người như đang thám sát cái thảm
hoa cùng đôi giày vải nỉ thêu phù hiệu của đội thể
thao Pittsburg Steelers ông đang mang.
“Giờ mới nóng máy đó,” Bill sẽ tuyên bố, sau
khi tôi đã tập tới tập lui chừng đó cả hai mươi
phút. Tiếp theo là phần tập hát những thang âm
lên xuống theo phím dương cầm, trong lúc tôi phải
nhũn người như một con búp bê vải nhồi trong một
tư thế để làm cho cơ bụng phải thư giản. “Tôi
muốn âm thanh phải được đưa lên từ tốn dọc theo
6
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
xương sống, từng đốt một,” ông bảo tôi. Ông khen
tôi khi tôi lên những nốt cao giọng óc làm tôi cũng
ngạc nhiên như ông, và tự cảm thấy mình như có
một thứ quyền phép bí mật có thể thám hiểm âm
vực dành riêng cho phụ nữ (hoặc castrati, những
ca nam bị thiến để giữ giọng kim).
Đến giai đoạn này, có thể nói là những bài tập
luyện chỉ thuần về mặt kỹ thuật. Chẳng có gì liên
quan đến phần diễn cảm. Tuy vậy giọng hát vẫn
có những kỳ diệu cố hữu mà trong quá trình tạo
thanh đã bị khuất lấp đi dễ dàng. Như thế này: một
giai điệu tuyệt hảo nhất thế giới bắt đầu từ một
động lực nơi cơ hoành (diaphragm) đẩy luồng hơi
lên thanh quản (larynx), bộ phận tạo âm thanh với
những vocal cord treo tựa cánh buồm. Khi vocal
cords rung thì ta có thể ầm ừ, nói, rên rỉ, thét gào,
hát. Nhưng âm thanh sẽ không nghe được nếu
không có những hốc hố trong lồng ngực, cổ họng
và quanh mũi. Những gì tưởng như đã thoát ra từ
miệng – những năng lực của xúc cảm và mỹ thuật thật ra là từ những nơi khác trong thân thể. Miệng
chỉ là một cái lỗ thoát.
Bill chỉ dẫn tôi uốn éo miệng thành những hình
thù khác nhau: mỗi khẩu hình là một âm thanh dị
biệt, thay đổi thêm thắt theo vị trí của lưỡi và phần
mềm của nóc họng. Ông bảo tôi đừng rung quai
hàm khi tôi ngân – giọng ngân phải xuất phát từ
một nơi khác, trong quá trình tạo thanh. Ông
không ấn định tôi phải ngân nơi nào, vì đó là sự
biểu cảm cá nhân, và cũng là một chọn lựa với rất
nhiều cạm bẫy. Tôi nghĩ, cầu trời tôi không phải
ngân thật chậm theo kiểu mà dân nghề nghiệp gọi
là hát giọng lảo đảo, hay cách líu lo thật nhanh từ
chân lưỡi thường làm cho thính giả có cảm tưởng
họ đang nghe bà Edith Piaf vừa hít phải hơi khí
helium, có thể tuyệt cho con chim họa mi của Pháp,
7
còn kỳ dư thì chỉ có độn thổ mà thôi. Tôi phải nhấn
mạnh thêm một chút là cường độ cảm xúc tuôn ra
một cách bí mật chỉ từ sự thay đổi rất nhỏ nhặt
trong âm bậc (pitch). Ca từ dường như không cần
thiết khi âm thanh thuần khiết có thể làm người
nghe rơi lệ, hoặc thăng hoa, hoặc đôi khi đổi cả
đời. Thì cần quái gì đến chữ nghĩa.
Chỉ có điều là chữ nghĩa sắp sửa trở thành đề
tài chính của lớp luyện giọng. Bill bảo tôi lựa một
ca khúc để làm việc cho vài buổi tập tới. Tôi chọn
“Like Someone in Love,” viết bởi Jimmy Van
Heusen và Johnny Burke vào năm 1944. Bài nhạc
đã thu hút khá nhiều ca sĩ hát tình ca, xuất hiện
trong vở nhạc kịch “Belle of Yukon” khi Dinah
Shore hát tỏ tình với người nhạc sĩ dương cầm cô
thầm yêu. Năm sau, phiên bản của Bing Crosby
trở thành một hit; tiếp theo đó là một loạt ca sĩ,
trong đó có Ella Fitzgerald (hát thật chậm như rùa
bò) và Chet Baker (xém chút nữa là lăn ra
ngủ). Gần đây thì có Björk, người ca sĩ dường như
phải lấy hơi cứ mỗi hai hay ba chữ. Bản diễn của
cô ta nhắc nhở ta rằng xướng ca phải dùng đến
thân thể chứ không phải xúc cảm, rằng âm thanh
cần phải được bồi dưỡng bằng những thứ thật căn
bản như khí oxy và khói thuốc.
Nhưng chính ra phiên bản của Frank Sinatra đã
khiến tôi quyết định chọn ca khúc này. Sinatra là
một ca sĩ bị ám ảnh với kỹ thuật thở đến nỗi ông đã
từng bơi lặn dưới nước thật lâu để giúp cho buồng
phổi có thêm năng lực. Cách hát của ông hoàn
toàn ngược với Björk: ông muốn những câu hát
thoát ra triền miên như không bao giờ phải cần lấy
hơi, như thể để thính giả nghĩ rằng ông không bị
giới hạn như những người thường. Ngược lại,
cách hát mỗi câu của ông rất gần như câu nói: thật
trân trọng, pha một chút nét mỏng manh dễ vỡ sau
8
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
làn hơi thở, làm ta không thể nào không nghĩ đến
cái giới hạn của con người.
Bằng kỹ thuật ấy, ông đã hát “Like Someone in
Love” trong dĩa “Songs for Young Lovers” vào năm
1954, với phần đệm do ban nhạc của Nelson
Riddle. Bài nhạc bắt đầu với phần dạo của sáo và
thụ cầm, rồi Sinatra nhẹ hòa lời ca vào bằng giọng
baritone rất thanh thoát. Ca từ, gồm ba đoạn diễn
tả tâm tình bị mê hoặc ngớ ngẩn vì yêu, chẳng có
gì xuất sắc. Thật sự giai điệu có hơi buồn
ngủ. Đoạn đầu như thế này:
Lately I find myself
Out gazing at stars,
Hearing guitars,
Like someone in love.
Sometimes the things I do astound me,
Mostly whenever you’re around me.
(Dạo này thường thấy mình hay ngắm nhìn
trăng sao. Hoặc ngẩn ngơ theo tiếng đàn như một
kẻ đang si tình. Đôi khi có những hành động làm
chính tôi kinh ngạc, thường là khi em đang bên tôi.)
Nhưng Sinatra biết tâm điểm bí mật của giai
điệu ở đâu. Bài nhạc nào cũng có cái tâm điểm
ấy. Trong ca khúc “Like Someone in Love”, bắt
đầu từ trường canh thứ sáu, giai điệu rơi xuống
một nấc, được bao trùm ôm ấp hợp âm bảy trưởng
thật ngọt ngào, rồi rướn lên sáu, rồi rơi tiếp xuống
một nấc nữa. Nghe như quá kỹ thuật, nhưng
không hẳn vậy. Hoàn toàn không. Đó là một cách
tạo xúc cảm cho người nghe, ngay cả khi bất đồng
ngôn ngữ.
Trong một buổi tập nhiều giờ, Bill bắt tôi hát tới
hát lui bài “Like Someone in Love”, và tôi cố chú
tâm vào phần kỹ thuật. Thời điểm này, chương
trình American Idol đang rất thịnh, và hát lạc giọng
9
là điều tối kỵ. Vì thế tôi chăm chú đuổi theo những
nốt nhạc và cố bắt nắm cho chính xác, nhất là vào
quãng sáu ngọt ngào đó.
Thật ngược đời, vì cố làm như thế mà tôi đã vô
tình lạc mất điểm chính yếu của bài nhạc, có thể là
cả điều quan trọng nhất khi hát. Trong buổi tập kế
tiếp, chuyện này thành rõ rệt hơn, khi Karen đến để
giúp tôi cách diễn câu cũng như biểu cảm. Tôi
đứng giữa, nàng và ông Bill ngồi hai bên, hai vị
quân sư chăm chú theo dõi tôi hùng hục tấn công
bài nhạc. Khi chấm dứt, Karen khen giọng tôi thật
ấm áp rồi hỏi tôi rằng câu chuyện tôi muốn kể cho
thính giả là gì. Chuyện gì người hát hiểu ra ở cuối
bài nhạc mà họ đã không biết vào đoạn đầu? Tôi
nhìn nàng một cách ngớ ngẩn. Bấy lâu nay tôi đã
xem ca từ như một chuỗi âm thanh vô nghĩa. Ý
tưởng tôi cần diễn tả phần kịch bản – một khám
phá về tình yêu làm thay đổi mọi thứ, một thứ cảm
xúc trời ban, một hầm mỏ quý kim của tình cảm
vừa khám phá – hoàn toàn chưa xuất hiện trong
đầu tôi.
Nhưng bây giờ thì tôi phải đối diện với vấn đề
này. Tôi nhận thấy mình cần phải thật từ tốn trong
cách biểu hiện hành trình khám phá tình cảm trong
ca khúc. Và hình như phải có điều gì ngập ngượng
trong mấy câu hát đầu. Trước tiên, gã si tình
chẳng hiểu thấu chuyện gì đã xảy ra: trong trạng
thái u mê và hoang tưởng, chẳng khác chi người bị
cảm sốt nặng. Gã cảm thấy như ai đó đang yêu
chứ không phải chính gã. Cảm giác rất thông
thường, như là một ai khác đang gặp vận
hên. Tiếp đến là nỗi bàng hoàng kinh ngạc khi
nhận thức ra kẻ đang mang cảm giác vớ vẩn đó
thật ra là chính mình.
10
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Tôi không dám nhận bừa ý nhạc của Burke,
hầu như toàn những tư tưởng cũ rích. Nhất là
trong thời đại Viagra, làm sao mà nhịn cười được
khi nghe gã si tình bỗng “nhũn ra như cái găng tay”
mỗi khi hắn nhìn người yêu? Nhưng ca từ biến
hóa dần dà theo giai điệu. Chúng trở nên dịu dàng
hơn, e thẹn hơn, lém lỉnh hơn – một cách tự thú
thật thú vị. Và như thế, tôi đã hát lại lần thứ nhì,
mới đầu rụt rè khiêm tốn, rồi từ từ đổi sang niềm
vui. Và niềm vui thì lúc nào dễ nhận ra ngay.
“Hay hơn nhiều,” Karen nói với tôi. Ông Bill gật
gù đồng tình, chân vẫn xỏ đôi giày nỉ thêu. Tôi hát
lại lần thứ ba. Lúc chúng tôi duyệt lại phần ghi âm
của buổi tập, phiên bản “tiền-Karen” thật là vô cảm
như người máy, nghe thật xấu hổ. Vì sao mà tôi có
thể xem lời ca như những âm vô nghĩa? Nhưng
những phiên bản sau đó cũng vẫn làm tôi thấy chột
dạ một cách kỳ quặc. Giờ nghĩ lại, tôi mới hiểu cái
cảm giác ấy đã có một lý lịch từ lâu. Lúc còn là
một thiếu niên lớn lên trong thập niên bảy mươi, tôi
đã xem Great American Songbook không khác gì
bánh mì sandwich Wonder Bread, nhào nắn biến
chế đến không còn chút sinh khí nào, và chỉ dành
riêng cho các đấng bô lão. Đó là loại nhạc phát
trong thang máy. Người hát thì khoác áo len cổ-lỗsĩ, thều thào vì thiếu răng. Một kết quả văn hóa hết
nhựa sống, đã bị đẩy qua một bên nhường chỗ cho
nhạc nhập cảng từ Anh Quốc và mọi thứ nhạc sau
đó. Vì thế, ngay cả lúc đã lớn, khi tôi tìm hiểu rồi
yêu chuộng dòng nhạc này, trong thâm tâm tôi vẫn
nhen nhúm mối nghi ngờ, cộng thêm cái quan điểm
về những tình cảm lỗi thời ấy chỉ thuộc về thế hệ
của cha mẹ mình.
Tư tưởng đầy sứt mẻ, phải không? Thật ngớ
ngẩn. Ta có thể cho rằng tình cảm đổi thay, và
những ca khúc thời thượng sẽ dạy cho ta những
11
cách thức biểu cảm hợp thời hơn – chúng như là
một loại cẩm nang để học những vui, buồn, giận,
hờn, v.v… Có thể vì tính lãng mạn khác thường
của tiền bán thế kỷ 20, nuôi dưỡng bởi nhóm
thương mãi nhạc Tin Pan Alley. Cũng có thể vì lời
lẽ thận trọng và trong sáng đẹp đẽ, so với tư tưởng
yêu cuồng sống vội của thời 60 mà tôi học được từ
chương trình tivi “Love, American Style”. Hoặc
cũng có thể căn bản tình cảm vẫn luôn luôn như
thế, chỉ có ngôn từ là bị thay đổi.
Tôi biết một điều rằng lúc nghe lại chính tôi hát
“Like Someone in Love”, tôi đã thấy thật bẽn lẽn:
một phản ứng cổ điển từ một bài hát cổ điển, có
nghĩa là tôi đã bộc lộ quá nhiều, và quá lộ liễu. Tôi
có cảm tưởng mình cần phải núp lại đằng sau cái
rào cản ngôn ngữ châm biếm hiện đại. Có phải tại
vì bản năng xấu? W. B. Yeats, một nhà thơ chuyên
mỉa mai nhưng cũng biết rất rõ lúc nào thì cần loại
bỏ nó. Ông vẫn thường mơ tưởng đến “tình yêu
cao sang cổ điển”, ám chỉ tình yêu không cần hoa
mỹ, loại tình cảm sâu đậm, không cần phòng thủ
của những người quá nhiều tính toán. Có lẽ đó là
điều “Like Someone in Love” có thể dạy cho
tôi. Ngay cả trong lúc tôi chùn chân trước lời ca
nhão nhoẹt, giai điệu sôi nổi đã làm tôi rúng động,
như một tình cảm nào đó. Tôi chờ, chờ, và chờ
cho trường canh thứ sáu để cảm thấy da tôi rợn
lên, trong lúc tôi hát bằng một giọng trầm trầm,
khan khản, nhắn nhủ. Tôi quyết định giọng tôi là
phải là baritone.
Cuối cùng tôi đã chuộc Fach của tôi, một phiên
bản “tôi” trong hệ âm thanh. Tôi đó. Nhận dạng
như vậy đó, một dạng ngẫu nhiên, và tôi lập tức
sửa soạn cho tôi vào giai đoạn kế tiếp. Càng già,
mô thanh quản mỏng dần, làm đàn ông lớn tuổi
hay có giọng nói cao và cáu kỉnh. Một chất giọng
12
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
nghe là biết liền: một chất giọng cuối thời trung
niên, lẩm cẩm hay thông thái hay nhẫn nhục,
nhưng rõ là thiếu chất đậm đặc lan tỏa của giọng
baritone gốc. Đó là, chán thay, thanh âm của giọng
tenor, với những bội âm nghe như tiếng vò giấy
hoặc cánh cửa lưới kẻo kẹt – là chất giọng tôi luôn
tránh né. Ngược lại, giọng của Frank Sinatra càng
già càng trầm xuống và tối lại. Sammy Cahn, một
nhạc sĩ thường làm việc chung với Sinatra, đã nói
rằng: “Ông ta biến chuyển từ một cây violin qua cây
viola rồi cuối cùng thành cello.” Đàng nào đi nữa,
hành trình của một ca sĩ là bắt đầu bằng một
người, rồi kết thúc thành một người khác, tuy vẫn
luôn luôn độ chừng vào cái bản chất cố hữu của
chính họ.
Nguyên tác: A Brief Tussle with the Great
American Songbook, The New Yorker (December
01, 2018)
James Marcus là
một nhà văn, chủ
bút
(tạp
chí
Harper)
cũng
như là một dịch
giả. Ông là tác
giả của cuốn
“Amazonia: Five
Years of the
Epicenter of the
Dot-Com
Juggernaut”
13
Nguyễn Thảo là
một trong hai sáng
lập viên của trang
mạng KẻJazz, một
ca sĩ có sở thích
khám phá nhạc
jazz cũng như
những loại nhạc
khác trên thế giới,
một dịch giả của
những ca khúc
cho chính anh và
những ca sĩ khác
trình bày, và cũng
là một họa sĩ thiết
kế đã tạo những
hình ảnh nghệ
thuật trên mạng.
14
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Mario Benedetti
(1955-2020)
Thi sĩ người Ý, nhà
báo, tiểu thuyết gia.
Một tài năng văn
chương trong thế giới
ngôn ngữ Spanish.
Phát hành 80 tác
phẩm. Một số đã
được dịch sang 20
sinh ngữ.
Tại Sao Chúng Ta Hát?
Nếu mỗi giờ đi qua mang theo cái chết của nó
nếu thời gian là hang động chứa chấp lưu manh
nếu không khí chẳng còn trong lành để thở,
sống chẳng còn gì ngoài di động đến mục tiêu
thì người sẽ hỏi, tại sao chúng ta hát …
Nếu chúng ta bị bỏ rơi không vòng tay ôm
đất mẹ hấp hối vì buồn bã
tim người từng mảnh vỡ tan
trước khi lòng xấu hổ bùng nổ
thì người sẽ hỏi tại sao chúng ta hát …
Chúng ta hát vì âm điệu của dòng sông
khi sông ngân vang tiếng nước chảy.
Chúng ta hát vì sự tàn ác không có tên
nhưng tên ông có.
15
Chúng ta hát vì trẻ em vì mọi thứ chung quanh
vì ngày mai và vì nhân loại.
Chúng ta hát vì những ai còn lại trên đời
vì sự chết thúc đẩy ta phải hát.
Nếu chúng ta xa tận chân mây
nếu cây cối, trời cao bị bỏ lại đây
nếu mỗi đêm đều vắng mặt
mỗi thức dậy đều mất hẹn hò
thì người sẽ hỏi tại sao chúng ta hát …
Chúng ta hát vì mưa rơi trên nếp nhăn
vì chúng ta là chiến sĩ trần thế
vì chúng ta dứt khoát không muốn
để những bài ca thành tro tàn.
Chúng ta hát vì khóc không chưa đủ
chẳng phải đầy nước mắt hay oán hờn.
Chúng ta hát vì tin vào nhân loại
vì sẽ vượt qua những thất bại khó khăn,
vì con người được mặt trời công nhận
vì ruộng đồng thơm hương mùa xuân
vì lá cành và cây trái
Tất cả câu hỏi đã được trả lời …
Bản gốc:
https://brainly.lat/tarea/37815694
16
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Bob Dylan
Nobel Văn Chương 2016 ?
Ngu Yên
Năm 2016, Giải Nobel Văn Chương được trao cho
Bob Dylan “vì đã tạo ra những cách diễn đạt thơ
mới trong truyền thống ca khúc vĩ đại của Hoa Kỳ.”
"for having created new poetic expressions within
the great American song tradition."
17
Sự kiện Bob Dylan được trao Giải Nobel Văn
Chương về thi ca gây ra nhiều tranh cãi, từ lãnh
vực văn chương qua chính trị, xã hội. Cụm từ
“created new poetic expression” bao gồm ca từ
trên giai điệu, không chỉ ca từ như thơ.
Cuối cùng, câu hỏi lớn nhất: Trong năm 2016 có rất
nhiều nhà thơ lớn trên thế giới, được giới văn học
ngưỡng mộ và độc giả yêu thích, vì sao hội đồng
Nobel lại trao giải cho nhạc sĩ. Cho dù ca từ hay
cách mấy, ý nghĩa sâu cách mấy, vẫn khó vượt
qua những câu thơ để đời của các thi sĩ tài danh?
Có lẽ đã biết vậy, hội đồng Nobel giài thích, giải
Nobel được trao cho Bob Dylan vì hai lý do: Tạo ra
cách diễn đạt thơ mới (và) cho truyền thống của ca
khúc Hoa Kỳ.
Lý do thứ nhất không đặt trọng tâm nơi sáng tác
thơ mà chuyển sang nghệ thật diễn đạt thơ qua âm
nhạc.
Lý do thứ hai: Chỉ đóng khung trong dòng nhạc
Hoa Kỳ? Không bao gồm thế giới? Phải chăng giải
Nobel là giải không giới hạn quốc gia, sắc tộc?
Chúng ta thấy ngay khiếm khuyết trong “ý nghĩ”
của hội đồng Nobel.
Riêng về bài diễn văn Dylan đọc trong ngày nhận
giải thưởng, ông khởi đầu bằng câu: “Đầu tiên, Khi
tôi nhận được [tin lãnh] giải Nobel Văn Chương
này, tôi tự hỏi mình, các ca khúc của tôi liên quan
chính xác như thế nào đến văn chương. …” (When
I first received this Nobel Prize for Literature, I got
to wondering exactly how my songs related to
literature. […] ) và suốt cả một bài dài, không nghe
thấy ông nhắc đến thơ. (Nguyên tác bàI diễn văn:
https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2016/dy
lan/lecture/ ) Như vậy nghĩa là sao?
18
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Thoạt đầu, ông đã tự nghi ngờ về phẩm chất văn
chương trong ca từ cùa các tác phẩm do ông sáng
tác. Tiếp theo không nói gì về thi ca, cho thấy, đó
không phải là lãnh vực sâu sắc và dày kinh nghiệm
của ông. Luận lý này dẫn đến sự nghi ngờ về mức
thang đánh giá văn chương của hội đồng Nobel
trong năm 2016.
Tuy nhiên, dù có nhiều bất đồng và bất mãn về giải
Nobel trao cho Dylan, nhưng không ai có thể từ
chối tài năng vượt trội của ông về ca khúc, nhất là
ca từ. Những sáng tác của ông dày đặc ý nghĩa và
ý tưởng đẹp, trải dài qua nhiều lãnh vực khác nhau
trong đời sống. Bob Dylan không cần giải Nobel để
minh chứng tài năng độc đáo của ông.
Cùng thời với ông, ca nhạc sĩ Leonard Cohen cũng
được ngưỡng mộ về ca từ thâm trầm và thi từ
mang tính đương đại. Lẽ ra, Giải Nobel mà Bob
Dylan nhận lãnh, phải là Giải Nobel âm nhạc.
Bob Dylan Tên thật là Robert Allen Zimmerman (24
tháng 5 năm 1941 - ) Sinh quán: Duluth, Minne so
ta. Vừa là ca sĩ vừa là nhạc sĩ sáng tác ca khúc.
Viết sách và tạo hình. Được xem như một trong số
nhạc sĩ viết ca khúc đứng hàng đầu thời đương
đại.
Trong hơn 60 năm sáng tác ca khúc, những tác
phẩm nổi bật đáng ghi nhớ trong thập niên 1960
như: Blowing in the Wind, 1963, (Bay theo gió
cuốn); The Time They Are a Changin, 1964, (Thời
gian là đổi thay), bài này gần như trở thành quốc
ca cho phong trào nhân quyền.
Năm 1963, Dĩa nhạc The Freewheelin’ Bob Dylan
biểu lộ sự thoát ly dòng nhạc dân ca trước đó. Năm
1965, 1966, ông đưa ra một số tuyện tập nhạc
19
Rock, mang tầm quan trọng trong thập niên này,
như: Bringing it All Back Home,1965, (Mang tất cả
trở về nhà); Highway 61, 1965. (Xa lộ 61; Blonde
on Blonde, 1966, (Tóc vàng với tóc vàng.)
Sự thành công của ông vẫn tiếp tục trong những
thập niên tiếp theo. Năm 1994, ông cho phát hành
8 cuốn sách về hội họa, bao gồm tranh vẽ bằng bút
chì và tranh sơn dầu. Nhiều tác phẩm được trưng
bày trong những phòng triển lãm tranh tên tuổi.
Ông đã đoạt những giải như: Presidential Medal of
Freedom, 10 lần giải Grammy Awards, Goden
Globe Award, Academy Award. và The Pulitzer
Prize Board 2008. Ông hiện diện trong Rock and
Roll Hall of Frame, Nashville Songwriters Hall of
Frame, The Songwriters Hall of Frame.
Tuyển Chọn
Ca Từ Của Bob Dylan
Ghi: Dịch theo thơ, không dùng để hát.
Blowin’ In The Wind, (1963):
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/blowininth
ewind.html
Cuốn Bay Theo Gió
Một người phải đi qua bao nhiêu đường
Trước khi được gọi là đàn ông?
Chim bồ câu trắng phài vượt bao nhiêu biển
20
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Trước khi ngủ vùi trên cát?
Đạn đại bác phải bắn bao nhiêu viên
Trước khi bị ngăn cấm vĩnh viễn?
Bạn ơi, câu trả lời theo gió cuốn bay
Câu trả lời theo gió cuốn bay
Ngọn núi tồn tại bao lâu
Trước khi chìm xuống biển?
Con người sống bao năm
Trước khi được tự do?
Một người quay mặt lại mấy lần
Giả vờ như không thấy?
Bạn ơi, câu trả lời theo gió cuốn bay
Câu trả lời theo gió cuốn bay
Một người ngẩn mặt lên mấy lần
Trước khi thấy trời xanh?
Một người cần có bao nhiêu tai
Trước khi nghe người khác khóc?
Bao nhiêu cái chết mới khiến anh quan tâm
như vậy, chết quá nhiều?
Bạn ơi, câu trả lời theo gió cuốn bay
Câu trả lời theo gió cuốn bay
21
Only A Pawn In Their Game, (1964):
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/onlyapawn
intheirgame.html
Con Tốt Trong Bàn Cờ
Viên đạn bắn từ lùm cây lấy máu Medgar Evers
Ngón tay bấm cò nhắm tên anh ta
Tay cầm ẩn núp trong bóng tối
Bàn tay bắn tia lửa chớp ngời
Hai mắt nhắm chăm bẵm
Đằng sau bộ não của một người
Không thể đổ lỗi cho người ấy
Chỉ là con tốt trên bàn cờ
Một chính trị gia miền nam thuyết giảng anh da
trắng nghèo khổ
“Anh có nhiều hơn dân da đen, đừng than phiền
Anh có phước hơn họ, sinh ra làm da trắng”
họ thanh minh
Còn tên người da đen
Được đơn thuần sử dụng
Cho quyền lợi chính trị gia
Khi ông nổi tiếng
Anh da trắng vẫn nghèo
Trong toa tàu chở công nhân
Nhưng không thể đổ lỗi cho ông ấy
22
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Chỉ là con tốt trên bàn cờ
Cảnh sát, quân đội, thống đốc được lãnh lương
Cảnh sát trường, công an, cũng vậy
Còn anh da trắng nghèo dùng tay như dụng cụ
Dạy học trong trường
Từ lúc sinh ra đã theo quy tắc
Luật pháp giữ bên mình
Để bảo vệ da trắng
Để giữ lòng căm ghét
Vì vậy, không bao giờ nghĩ sâu xa
Về mẫu mực anh đang sống
Những không thể đổ lỗi cho anh
Chỉ là con tốt trên bàn cờ
Từ căn nhà lụp xụp khốn đốn
Anh nhìn vết nứt trên đường rầy
Móng chân đập mạnh trong tâm trí
Anh được dạy đi chung đám đông
Bắn trong đám đông
Với quả đấm siết chặt
Để treo cổ để hành hình
Để trốn dưới mũ trùm
Để giết không cảm giác
như chó bị xích xiềng
Anh không cần có tên
23
Nhưng không thể đổ lỗi cho anh ấy
Chỉ là con tốt trên bàn cờ
Hôm nay,
Medgar Evers được chôn vì trúng đạn
Họ hạ anh xuống huyệt như một vị vua
Nhưng khi mặt trời phủ bóng trên người đã bắn
Anh thấy bên ngôi mồ của hắn
trên tàn tích mộ bia
khắc cạnh tên người chết
Chỉ là con tốt trên bàn cờ
Rainy Day Woman #12 & 35, (1966):
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/rainydayw
oman1235.html
Phụ Nữ Trong Ngày Mưa
#12 & 35
Họ sẽ ném đá khi em đang cố làm người tốt
Họ sẽ ném đá như đã tuyên bố sẽ thi hành
Họ sẽ ném đá khi em đang cố trở về nhà
Họ sẽ ném đá khi em một mình ở đó
Nhưng t6i không cảm thấy cô đơn
Mọi người đều phải bị ném đá
24
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Họ sẽ ném đá khi em đi trên đường
Họ sẽ ném đá khi em cố ngồi xuống
Họ sẽ ném đá khi em đi trên sàn nhà
Họ sẽ ném đá khi em đi vào cửa
Nhưng tôi không cảm thấy cô đơn
Mọi người đều phải bị ném đá.
Họ sẽ ném đá khi em đang ăn sáng
Họ sẽ ném đá khi em sung sức có tài năng
Họ sẽ ném đá khi em đang cố làm kiếm tiền
Họ sẽ ném đá rồi chúc em may mắn
Nói cho em biết, tôi không cảm thấy cô đơn
Mọi người đều phải bị ném đá.
Họ sẽ ném đá rồi tuyên bố kết thúc
Họ sẽ ném đá rồi trở lại ném đá
Họ sẽ ném đá khi em đang lái xe
Họ sẽ ném đá khi em chơi đàn thùng
Vâng, nhưng tôi không cảm thấy cô đơn
Mọi người đều phải bị ném đá
Họ sẽ ném đá khi em đi một mình
Họ sẽ ném đá khi em đi về nhà
Họ sẽ ném đá rồi khen em can đảm
Họ sẽ ném đá khi em nằm xuống mộ
25
Nhưng tôi không cảm thấy cô đơn
Mọi người đều phải bị ném đá
The Man In Me (1970)
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/themanin
me.html
Người Đàn Ông Trong Tôi
Người đàn ông trong tôi sẽ làm hầu hết nhiệm vụ
Và đòi hỏi rất ít khi trả công
26
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Phải có một phụ nữ như em
Mới hiểu được người đàn ông trong tôi
Mây bão tố đang vây quanh trước cửa
Tôi tự nhủ, không chịu đựng được nữa
Phải có một phụ nữ như em
Mới tìm thấy người đàn ông trong tôi
Nhưng, ô, thật là cảm giác kỳ diệu
Dù chỉ biết em đang gần kề
Khiến con tim tôi khiêu vũ
Từ ngón chân lên tận vành tai
Người đàn ông trong tôi đôi khi ẩn trốn
không muốn ai nhìn
Chỉ vì ông không để bản thân biến thành bộ máy
Phải có một phụ nữ như em
Mới hiểu được người đàn ông trong tôi
Bucket Of Rain, (1975)
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/bucketsofr
ain.html
Thùng Nước Mưa
Thùng nước mưa
Thùng nước mắt
27
Hãy lấy hết các thùng đang đầy trong tai tôi
Thùng ánh trăng trên tay
Em yêu dấu, em đã lấy hết tình yêu
Tôi vẫn còn đứng vững
Tôi hiền lành
Và cứng như cây Sồi
Tôi thấy nhiều người xinh đẹp biến mất như làn
khói
Bạn bè sẽ đến bạn bè sẽ nhạt nhòa
Em yêu dấu, nếu em muốn
Tôi sẽ ở đây
Tôi yêu nụ cười
và móng tay em
Tôi yêu hấp lực bờ mông em di chuyển
Tôi yêu kiểu có duyên khi em nhìn
Tất cả mọi thứ từ em
Gây cho tôi khốn khổ
Toa xe nhỏ màu đỏ
Xe đạp nhỏ màu đỏ
Tôi không phải là khỉ nhưng biết mình thích thứ gì
Tôi yêu kiểu em yêu tôi mạnh bạo mà chậm rãi
Em yêu dấu, khi tôi đi
Hãy đi cùng với tôi
28
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Sống là đau buồn
Đời là tan vỡ
Ta chỉ có thể làm những gì phải làm
Ta chỉ làm những gì phải làm và làm cho tốt
Em yêu dấu, tôi sẽ làm vì em
Em biết không?
All Or Nothing At All. 2016
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/allornothin
gatall.html
Tất Cả Hoặc Không Có Gì
Tất cả hoặc không có gì
Một nửa tình yêu không bao giờ hấp dẫn tôi
Nếu tim em không bao giờ yêu tôi
Tôi thà không có gì cả
Tất cả hoặc không có gì
Nếu đã yêu, không có gì ở giữa
Tại sao lại khóc vì chuyện này có thể xảy ra
Không, tôi thà không có gì cả
Làm ơn đừng kề môi vào má tôi
Đừng cười, tôi sẽ thất lạc không thể quay lại
Nụ hôn trong mắt em
Vuốt ve từ tay em
29
Làm tôi yếu đuối
Và trái tim xây xẩm ngã nhào
Nếu bị mê hoặc bởi em mời gọi
Tôi sẽ chìm xuống dòng nước ngầm
Em thấy không, tôi phải từ chối “Không, không”
Hoặc tất cả hoặc không có gì
How Deep Is The Ocean, 2017
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/howdeepis
theocean.html
Đại Dương Sâu Thế Nào
Tôi yêu em nhiều bao nhiêu?
Tôi không gian dối
Đại dương sâu thế nào?
Bầu trời cao ra sao?
Nhớ em bao nhiêu lần mỗi ngày?
Bao nhiêu hoa hồng ướt nhẹ sương đêm?
Tôi phải đi bao xa
Để đến nơi em chờ?
Hành trình này bao xa
Từ đây đến tinh tú?
30
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Nếu có bao giờ thất lạc em, tôi sẽ khóc bao lâu?
Đại dương sâu thế nào?
Bầu trời cao ra sao?
Tôi phải đi bao xa
Để đến nơi em chờ?
Hành trình này bao xa
Từ đây đến tinh tú?
Nếu có bao giờ thất lạc em, tôi sẽ khóc bao lâu?
Đại dương sâu thế nào?
Bầu trời cao ra sao?
Why Was I Born, (2020)
https://www.azlyrics.com/lyrics/bobdylan/whywasib
orn.html
Tại Sao Tôi Sinh Ra
Tại sao tôi sinh ra cho tôi biết tại sao tôi sống
Tôi đã cho và đang cho cái gì
Tôi muốn điều gì có gì cho tôi hy vọng
Tôi hy vọng điều gì ước gì tôi có thể biết
Tại sao tôi cố níu kéo em đến gần
Em yêu, cho tôi biêt tại sao tôi khóc
Vì em chẳng bao giờ nghe tôi
31
Thật tội nghiệp thằng ngốc
Tại sao tôi sinh ra đời để yêu em
Tại sao tôi cố níu kéo em đến gần
Em yêu, cho tôi biêt tại sao tôi khóc
Vì em chẳng bao giờ nghe tôi
Tôi là thằng ngốc tội nghiệp
Nhưng tôi có thể làm gì, làm gì
Tại sao tôi sinh ra đời để yêu em
32
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Phiếm Luận Phần I
Từ Hay Hát Đến Hát Hay
Ngu Yên
1.
“Hát hay không bằng hay hát.” Câu nói này của
người Việt, không hiểu là khen thưởng hay khuyến
khích hoặc nói cho vừa lòng nhau. Tuy nhiên,
người nghe câu nói này, thường cảm thấy sung
sướng. Đời sống, có người thành công trong thực
tế, có người thành công trong giấc mơ. Bạn tôi nói,
đêm qua, tao thấy tao hát trên sân khấu Thúy Nga
lộng lẫy, đã quá trời. Hay hát đến độ nhập tâm,
đang ngủ cũng hát, là một trạng thái hạnh phúc, tối
thiểu là hạnh phúc chiêm bao. Bất kỳ loại hạnh
phúc nào cũng cần thiết cho kiếp người.
Ngày xưa, tôi nghe nói, mỗi người Việt là mỗi thi sĩ.
Không biết đúng hoặc sai. Nhưng ngày nay, chúng
ta có thể nói, mỗi người Việt là mỗi ca sĩ. Từ đầu
thập niên 1990, phong trào Karaoke bùng nổ, dậy
sóng trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Tức là
khoảng 15 năm sau khi dàn nhạc Karaoke ra đời,
(1975), do nhà kinh doanh Roberto Del Rosario
người Phi Luật Tân đầu tư vào thị trường giải trí.
Tiền thân là bộ máy “8 Juke” do Daisuke Inoue thiết
kế, một nhạc sĩ người Nhật. Trước nữa, bắt nguồn
từ chương trình truyền hình “Sing Along With
Mitch" (Hát với Mitch.)
Tưng bừng, hầu hết nhà nào cũng sắm một bộ máy
Karaoke để giải trí và mộng mơ suốt tuần, Ngày
thường thì mơ một mình. Cuối tuần, tập trung, mơ
chung. Bộ máy trở thành một thứ gì đại diện cho
33
mức độ văn minh, khả năng hội nhập nền văn hóa
mới. Những người tị nạn, di dân, di trú mới vào
Hoa Kỳ, còn ướt chưa ráo. Còn vàng vàng ngã
màu xám xám, chưa có hào quang. Không nhiều
thì ít, Karaoke đã làm cho dân ta phấn khởi, hòa
hợp, hơn là viết báo, rải truyền đơn chửi bới nhau
trong giới tranh giành quyền lực chính trị và giới
chen lấn kinh doanh. Giới ca hát hòa bình và khen
nhau hát hay rối rít. Ai cũng vui, cho dù tận thâm
tâm, một số người nhìn nhận mình hát dở. Nhưng
không sao: Hát hay không bằng hay hát.
Người hay hát luôn luôn kỳ vọng, mình sẽ hát hay
hơn. Chẳng phải đây là một điều cần thiết cho tâm
lý? Bất kỳ là hy vọng gì, cũng sẽ làm sân cỏ trước
nhà xanh hơn hôm qua, Người nào trời sinh đã có
giọng hát tốt, đã từng hát đó đây, hát trong nhà
thờ, nhà chùa, đền bà Chúa, hát sinh nhật, hát đám
cưới, lúc này, có thêm Karaoke, như diều gặp gió,
như cá sấu mọc thêm răng, như trẻ em được bồng
lên cao giữa đám đông cho mọi người thấy mặt.
Chẳng phải đây là chuyện vui vẻ, may mắn, mà
không phải ai muốn cũng được?
Nếu muốn, cũng có thể được. Vì Karaoke có nghĩa
chính thức như thế nào, tôi không rõ, nhưng nghĩa
Việt thì tôi biết: “Ca ra, ô kê.” Hát ra là nghe được
liền như mì gói nhúng nước sôi. Nhưng nghĩa thâm
thúy hơn: Cứ ca nhiều sẽ thành ca sĩ. Phong trào
Karaoke thịnh hành ngoài nước, trong nước từ đó
đến nay, ngót đã hơn 30 năm. Được luyện tập lâu
dài như vậy, đó là lý do chúng ta nghe, mỗi người
Việt là mỗi ca sĩ. Cho dù hát không ai nghe, chúng
ta cũng có thể nói như các nhà thơ chán đời: viết
không cần ai đọc.
Nhớ lại những dàn Karaoke thuở ban đầu, tôi cũng
phải khâm phục khả năng sáng kiến của một số
34
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
người. Lúc đó, đa số người mình tuy thiếu tiền
nhưng dư công. Có anh, bỏ giờ ra cưa đục, tự
quấn dây đồng, làm thành những bộ loa nặng nề,
sơn đen láng bóng, trông ác liệt. Bắt ít đèn nháy
sau màn lưới ở mặt loa, hiện đại, âm u, Tuy âm
thanh hơi rền nhưng đối với chúng tôi có tai nghe
tiếng động, tiếng súng, tiếng xe, tiếng đại bác, thì
tiếng rên rền ra vẻ có echo tự nhiên, đã là quá hay.
Vài người rán làm overtime để dư tiền, đặt anh làm
vài bộ loa tương tựa.
Nhưng tôi rất thích thú một anh bạn khác, không
mất nhiều sức lao động. Đã ra Radio Shack mua
cả trăm chiếc loa nhỏ, rẻ tiền, không có hộp. Khắp
nhà anh, bất kỳ một nơi nào có thể che giấu, anh
sẽ đặt một cái loa hoang dại vào đó. Chạy dây
dưới thảm, leo lên trong tường, chui ra ẩn núp rồi
gắn vào loa một cách bí mật. Tôi gọi là loa nằm
vùng, vì không thể biết chúng ở đâu. Khi hát lên,
toàn nhà, từ bếp, phòng ngủ, phòng tắm, phòng
khách, …. đồng loạt lên tiếng. Tất nhiên là không ô
kê tuyệt đối vì loa dở, nhưng tương đối và đáng
khâm phục. Khi đèn màu bật lên, khi đèn tím làm
hàm răng trắng toát, thì xập xình không thua gì
phòng trà. Tôi không nghĩ, vợ con anh có thể tìm
một nơi nào ẩn núp mà tiếng hát không thể tìm
đến. Nhất là những khách đi họp hát, thường trốn
vào phòng vệ sinh hay ra ngoài hiên hút thuốc để
tránh nghe ai đó đến phiên lên sân khấu. Họ đã
lầm, dù tị nạn nơi nào vẫn không thể thoát được
tiếng loa nằm vùng. Các anh bạn đó đều là những
tay chuyên luyện, chuyên nghiệp Karaoke.
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không
có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự
nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng
để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem
phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật
35
máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi
lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào
sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm
bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như
cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng
thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn
chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự
làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang
đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng
không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến
nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi
chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca
hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào
ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số
thân hữu có giới hạn.
2.
Karaoke gồm có hai phần: Ca ra thuộc về hát. Ô kê
thuộc về nghe.
Khi buồn, người khóc; khi vui, người cười; khi giận,
người la; khi muốn, người nói. Như vậy, hát là khi
nào?
Nếu nói có mục đích chính là chuyển ý nghĩ của
mình đến người nghe, thì hát có mục đích truyền
đạt và chia sẻ cảm xúc của mình. Dù là ca sĩ
chuyên nghiệp hay người hát cho nhau nghe đều
giống nhau ở căn bản chia sẻ cảm xúc qua ca từ
và cách diễn đạt vẻ đẹp điều hay của ca khúc. Nói
một cách kỹ thuật, hát là truyền đạt ý nghĩa của bài
nhạc và hỗ tương cảm xúc giữa người hát và
người nghe. Hỗ tương, có nghĩa bánh đúc trao đi
bánh chì trao lại. Như vậy, trước hết, đối với người
hát tài tử, hát khi có cảm xúc. Hoặc hát khi tạo ra
cảm xúc. Hai việc này xảy ra cùng một lúc. Hát khi
muốn giao tiếp cảm xúc, trước khi muốn những thứ
36
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
khác. (Thông thường, khi muốn biểu diễn với khán
giả, cảm xúc sẽ bỏ chạy, hoặc thụt lui, đứng sau
người hát.) Sau đó, mới đến việc giải trí và thuyết
phục người nghe. Đứng chót là làm le, tự hào về
tiếng hát, nghĩ rằng, có cơ hội vượt thời gian. Tiếc
rằng, nhiều người hát đã mang tiết mục đứng chót
lên hàng đầu. Dưới áp suất của hoang tưởng khiến
cho những lời khen của bạn bè, hàng xóm, người
thân, người đeo đuổi ái tình, trở thành những lời
chấm điểm của các bậc chuyên môn âm nhạc trong
chương trình American Idols. Phải cẩn thận đừng
để ưu điểm của Karaoke trở thành khuyết điểm.
Trở thành ca sĩ chuyên nghiệp và hát miễn phí dù
hay hơn ca sĩ là hai chuyện khác nhau, có nhiều
chi tiết khác nhau, tương tựa như cũng là vợ,
nhưng vợ lớn và vợ bé khác nhau, cho dù vợ này
có thể đẹp hơn vợ kia.
Ca sĩ chuyên nghiệp thông thường rất nhạy cảm,
bộc phát tâm tình một cách tự nhiên mỗi khi họ hát,
cho dù một bài hát đã hát rất nhiều lần, mỗi lần mỗi
khung cảnh, mỗi tâm tình, vì vậy, cùng một bài hát
có khi họ hát hay hơn ở nơi này mà kém hơn ở nơi
khác. Mức độ truyền đạt ý nghĩa và khả năng giao
tiếp của cảm xúc tạo ra hiệu quả khác nhau. Hoặc
thay vì tạo ra cảm xúc, họ có khả năng giả cảm
xúc. Tùy mức độ và tài năng giả mà người nghe có
thể chia sẻ cảm xúc của người hát hay không. Tệ
nhất, là giả ướt át, nức nở, như quẹt dầu cay lên
mắt để ứa lệ khi ngân nga: Nỗi buồn ai hay, khi
mình chia tay, xa cách nhau rồi…
Có một số bậc thang nghệ thuật và chi tiết kỹ thuật
để thẩm định một người hát hay hoặc hát với điểm
khuyến khích. Điểm căn cứ đầu tiên là cảm xúc và
truyền đạt: Người hát có “delivery” ca khúc đến
người nghe hay không? Từ “delivery” không có chữ
tương đương đúng nghĩa trong tiếng Việt. Tạm gọi
37
là “phân phối giao hàng bày tỏ” với khán giả.
Nhưng đúng hơn, tuy khó nghe, tuy chưa quen, tuy
góc cạnh, đó là định nghĩa trong trường hợp hát:
“delivery” là sinh đẻ. Người hát có sinh ra ca khúc
cho người nghe hay không? Sinh ra? Nghĩa là mỗi
lần hát là mỗi “em bé" có thân xác và linh hồn riêng
biệt. Dù hát một ca khúc nhiều lần không có nghĩa
cứ đẻ đi đẻ lại một em bé giống nhau y hệt. Tôi đề
nghị nếu bạn nào muốn tìm hiểu rõ hơn, mời đọc
bộ sách của Royal Stanton, MA đại học California,
Los Angeles, với hơn 40 năm dạy thanh nhạc từ cổ
điển đến pop, rock, jazz … Bạn sẽ lưu ý: Hát là
sáng tạo một ca khúc quen thuộc thành một ca
khúc riêng tư và độc đáo. (Delivery = sinh ra =
sáng tạo.)
Mỗi người lại có mỗi giọng hát khác nhau, từ bẩm
sinh. Phần luyện tập sẽ làm cho điêu luyện hơn, kỹ
thuật hơn, chính xác hơn, hài lòng hơn … nhưng
cây cam sẽ ra trái cam, cây khế sẽ ra trái khế. Cây
xoài không thể mọc trái ổi, dù cố treo trái ổi lên gió
sẽ thổi rụng. Tuy nhiên, trái cam có thể làm cho
ngọt hơn, trái khế lớn hơn, trái xoài thơm hơn …
Hát là đưa khí từ bụng (đan điền) lên phổi qua dàn
nếp nhăn ở thanh quản rồi mới được lưỡi, răng và
môi công suất ra ngoài. Đừng tưởng răng không
quan trọng. Thử lấy hàm răng giả ra, âm thanh hát
thiếu màn chắn hỗ trợ, phát âm sẽ nghe nhiểu
nhảo. Điều này muốn chứng minh, răng thưa, răng
ngắn … có ảnh hưởng đến phẩm chất phát thanh.
Mũi là lỗ thông hơi khi không khí bị nén ở môi răng
và lưỡi. Đó là lý do chúng ta nghe lời phê phán:
Hát gì giống như bị người khác bịt mũi. Còn hát bị
bóp cổ là sao? Thông thường là do học hát theo lối
cổ điển chưa thành tài hoặc có thói quen để âm hát
vọng bên trong phần sau của hốc miệng, thay vì
38
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
cho hơi thông ra một cách tự nhiên. Nghe tiếng hát
đó, nhất là lúc lên cao, quả thật bị bóp cổ.
Có người nói rằng tôi thích hát khi tắm hoặc lúc lái
xe. Lúc đó, nghe mình hát rất hay, rất cảm, mà lúc
đông người thì hát không được như vậy. Ông
Royal Stanton nói rằng, chuyện đó bình thường.
Do thiếu tự tin, bị tâm lý tấn công. Hát một mình
không cần nhạc, không ai nghe, tha hồ tung hoành
theo ý muốn, nhất là cảm xúc. Vì vậy, dễ cảm thấy
hay. Khi ra đám đông, tự nhiên sẽ bị áp lực. Nếu
trong đám đông có người hát hay, có người hay
chê, có tình nhân ngắm nghía, áp lực còn nặng nề
hơn nữa. Hát với dàn nhạc lạ, không vững nhịp,
không thuộc lời, không mong các nhạc sĩ chơi đàn
cứu vớt, tôi nghĩa rằng chưa đánh đã bại, chưa ca
đã rớt.
Hát Karaoke, chúng ta không biết màu sắc của âm
thanh là gì? vẻ đẹp của giọng hát ra sao? Hoa mùa
xuân màu sắc khác lá mùa thu. Vẻ đẹp âm u của
Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa, khác với vẻ
đẹp rạo rực Đừng Xa Em Đêm Nay. Nếu muốn có
vẻ đẹp khác thì tâm tư của người hát phải khác.
Các bạn có để ý, hầu hết những người có vợ con
êm ấm, chồng con âu yếm, lại thường xuyên hát
những bài chia ly, tan vỡ, khóc cho một cuộc tình
??? Và xin theo dõi khi họ hát. Mắt môi tứ chi đầy
tâm sự. Sao vậy??? Chuyện gì xảy ra ???
Hát Karaoke, chúng ta lo chạy đuổi theo nhạc, theo
lời, nên quên mang theo cảm xúc. Nếu có mang
theo thi không biết cách điều khiển. Cảm xúc như
một sinh vật của bản năng, thả nó chạy tự do, sẽ
phát ra âm thanh man rợ. Trói buộc nó quá, sẽ trở
thành tiếng vọng từ đáy vực. Điều khiển cảm xúc
trong lúc hát là kinh nghiệm nghệ thuật mà hầu hết
các ca sĩ thành danh đều thẩm thấu, dù mỗi người
39
có mỗi cách điểu khiển riêng. Tương tựa như vợ
điều khiển chồng, mỗi người mỗi cách đều đưa đến
hiệu quả, tuy mỗi chồng mỗi vẻ, nhưng đều nghe
vợ (thường là không tự biết) dù lơ là nhưng răm
rắp. Kết quả, gia đình yên vui. Những người vợ đó
biết nghệ thuật phối hợp và biết quản trị vô thức
của chồng. Người Mỹ thường gọi những người hát
không có khả năng phối hợp để trình bày bài hát là
“bad singer’, người ca ra không ô kê. Còn người
hát mà không nương nhờ vô thức mà bay là phi
công đi bộ.
Ông Staton đề nghị, muốn hát hay, muốn sinh ra ca
khúc, phải đòi hỏi một số điều kiện nhiều hơn là tập
hát. Phải có một số phẩm chất để tiếng hát được
công nhận có giá trị, để thuyết phục đa số người
nghe. Dù hát ngày hát đêm nhưng nếu không đủ
những điều kiện hoặc phẩm chất đó thì chỉ là hát
mua vui vì đời ngắn ngủi.
“Hay hát không thể bằng hát hay.”
3.
Hay hát hoặc là hát hay đều có lý do, hoặc lộ liễu
hoặc thầm kín. Người hát có khi biết, có khi không
biết, chỉ cảm thấy thích hát. Thích hát là một nhu
cầu tâm lý trong vô thức. Cho dù là ca sĩ chuyên
nghiệp, hát vì sinh kế, nhưng nếu hỏi rằng, có rất
nhiều chuyện làm, tại sao lại chọn nghề ca hát?
Nhu cầu tâm lý này đã có từ lúc nhỏ, có lúc bẩm
sinh, như đa phần được xây dựng bởi gia đình và
môi trường sống.
Khi buồn chán, hát lên vài câu, cảm thấy ngui
ngoai. Đang mệt mỏi, nghe một bản nhạc vừa ý, sẽ
cảm thấy khoẻ lại. Đang bình thường, bỗng dưng,
hát lên những câu nhạc thích thú, sẽ thấy đời sáng
sủa. Không có quân trường nào mà người lính
40
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
không hát những bài hùng ca. Không có nhà tù nào
mà không nghe tiếng hát. Không có mối tình nào
mà không liên quan đến một ca khúc gì đó, để suốt
đời, mỗi lần nghe ai hát, bỗng dưng: hôm nay trời
nhẹ lên cao, tôi buồn không biết vì sao tôi buồn …
Nhạc để hát hoặc nghe đều đem đến cho chúng ta
khả năng chữa trị tâm lý. Thực tế, khi một người
say sưa hát, mê man hát, cơ thể người đó tiết ra
chất Endorphins, giúp sức khỏe, sáng trí hơn một
chút, và vui hơn. Hát làm cho thần kinh và tâm tư
sinh hoạt, đánh tan chán nản, trầm cảm. Hát nhiều
không có hại gì, miễn đừng “hành hạ” lỗ tai người
khác một cách quá đáng. Hát cũng là một cách trị
liệu trí nhớ. Những ai chớm bị Alzheimer nên hát
suốt ngày, hát theo bài bản, không phải hát nghêu
ngao.
Hát là một cách nói những gì khó nói hoặc nói
không ra lời. Phải không? Nếu một người nhìn một
người sâu thẳm, sắc mặt mơ màng, tay cầm đàn
thùng, hát lên: Yêu ai, yêu cả một đời… Có nghĩa
là gì?
Hát là kinh nghiệm cơ bản của con người. Con vật
không biết hát. Một số nghệ sĩ yêu mến âm nhạc
đã nói rằng, sống là để hát. Nghĩ cho cùng, nếu
mỗi người Việt là mỗi ca sĩ tài tử đúng nghĩa, thì
chúng ta sẽ bớt chia rẻ, kình cãi và xâu xé lẫn
nhau.
41
Phiếm Luận Phần II
Nghe Và Đánh Giá
Tiếng Hát
Ngu Yên
4. Nghe.
Trở lại đề tài Karaoke, “ca ra” thuộc về hát, “ô kê”
thuộc về nghe. Có nghĩa, hát và nghe là giao tiếp.
Người hát truyền dẫn cảm xúc hay, lôi cuốn, người
nghe hưởng ứng nhiệt tình. gây cho người hát gia
tăng cảm xúc, thêm hứng khởi, hát tận tình. Trong
suốt khoảng thời gian trình bày ca khúc, sự hỗ
tương giữa hát và nghe là động cơ làm cho bài
trình diễn đó đạt được giá trị cao. Cứ tưởng tượng
hát và nghe như một đôi tình nhân hẹn hò trong
năm cho tới bảy phút. Nếu lơ là, tiêu cực, những
phút giây vàng ngọc sẽ qua nhanh. Muốn khoảng
khắc đó trở thành một kỹ niệm đáng nhớ, hai người
phải tích cực, chú ý đến nhau.
Hầu hết những buổi họp hát Karaoke của người
Việt, số người hát gần bằng số người nghe. Họ
quen nhau, hát với nhau nhiều lần. Biết bài tủ, bài
tẩy của nhau. Nghe lập lại, nhàm, mất hứng. Do
đó, mạnh người hát say sưa hát, mạnh người nghe
phất phơ không nghe. Mục đích trở nên vô lý, hát
cho nhau nghe trở thành hát không ai nghe, nhưng
chẳng sao, vẫn hát, vì “đời vốn đã phi lý.”
Một điểm vô lý đặc sắc khác, dù không mấy ai
nghe, người hát vẫn cảm thấy sung sướng và lần
sau lại mời mọc nhau họp hát. Karaoke Việt đã
42
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
phá vỡ quy tắc “cảm xúc hỗ tương.” Để dần dần
mệt mỏi, nghe nhau hát đến chán chường. Kết
quả, không tan cũng rả.
Nhưng, như con nhộng hóa thân thành bướm.
Karaoke bị chê, biến dạng thành Hát Cho Nhau
Nghe với nhạc sống, tổ chức tại gia hoặc bay đến
các phòng trà, vũ trường hạng B, về đêm.
Hát với nhạc sống, thông thường chỉ có keyboard
và guitar, thỉnh thoảng có trống, như vậy đã là
thăng cấp. Phong trào này cũng rầm rộ không kém
gì thuở ban đầu của Karaoke. Có phần vượt trội vì
có cảm giác cao sang và giống ca sĩ hơn. Về mặt
tâm lý, hiệu quả này tốt gấp trăm lần cờ bạc rượu
chè hoặc buồn bã đi lang thang.
Hát nhạc sống, có nhạc sĩ đuổi theo, vớt lúc lọt
nhịp, gia tăng echo vang, echo nhái, tiếng hát mơ
màng, nghe ngân nga vang nhái khắp phòng. Dưới
ánh đèn màu nhấp nháy xoay cuồng, đâu có thua
gì ca sĩ trên sân khấu lớn. Chỉ một chai nước lạnh
hoặc một chai bia, có thể vui chơi, ca hát, nhảy
đầm, suốt bốn, năm tiếng đồng hồ, có giải trí nào
vừa rẻ, vừa tập thể dục tốt cho tim mạch cơ bắp,
vừa được hát thông phổi, được đa số người lạ
nghe, vỗ tay, tìm đâu ra loại giải trí như vậy? Sống
phải chăng là lục lọi hạnh phúc? Vui chơi ca hát
nhảy đầm cũng đóng góp vào vốn liếng xây dựng
tình cảm, miễn đừng dây dưa với ái tình nào không
thuộc về mình.
Nhưng thời giờ vui chơi có giới hạn, mà người
tham dự càng ngày càng đông, đến không kịp ghi
tên sớm thì suốt buổi phải ngồi nghe, không được
hát. Ghi tên rồi, chỉ hát được một lần, mất công dùi
mài kinh sử, chải chuốt áo quần. Nếu để ý quan
sát, sẽ thấy rất nhiều cặp, nhiều nhóm, vừa hát
xong là lặng lẽ ra về, vì họ biết không có lần hát tới.
43
Những người ngồi lại hầu hết to nhỏ chuyện riêng
tư, cụng vài lít bia và nhai xoài cốc ổi hoặc nghêu
sò ếch dế. Như vậy là “Hát Cho Nhau,” không có
chữ “Nghe.” Một lần nữa, chúng ta thành lập quy
tắc: Hát không cần nghe.
Muốn họp hát Karaoke hoặc Hát Cho Nhau Nghe
được thành công, có ba điều căn bản nên thực
hiện:
1- Nhân số người hát không thể quá nhiều, để
người hát được hát lại vài lần. Có người
than phiền với tôi, được mời đi hát mà chỉ
hát một lần, chua miệng.
2- Luôn luôn phải có một số người mới tham
dự, số người mới phải chiếm 50%. Trong
liên hệ tình cảm, người mới chỉ cần nhìn
nhau, dòng insulin sẽ dâng trào một cách tự
nhiên. Chất này gây “phê” khi hát. Nhưng
nhiều insulin quá thi không tốt.
3- Không được hát bài đã hát rồi. Những
người đã từng tham dự, mỗi lần nên hát bài
mới. Như vậy sẽ tự luyện trí nhớ tốt, thuộc
nhiều bài, dễ gây lòng hãnh diện, và không
gây nhàm chán.
Đi đến kết luận, hát không phải là vấn đề mà nghe,
thưởng ngoạn, là vấn đề nan giải của người Việt
trong phong trào Cara-không-oke và Hát Không Ai
Nghe.
Tại sao?
5. Đánh Giá.
Hầu hết người Việt nghe nhạc nhưng không thật
sự thưởng thức nghệ thuật âm nhạc. Nghe nhạc vì
thói quen, nghe nhạc vì kỹ niệm, nghe nhạc vì có
mặt nên phải nghe. Trong thực tế, nghe nhạc là
44
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
quyền của mỗi người. Ai muốn nghe như thế nào,
tùy ý. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc nhở nhau một khía
cạnh: nên cẩn thận lời khen.
Nghe nhạc theo theo cảm tính: bạn bè, người quen
hát tạm được, khen rối rít, khen lịch sự, khen để
được khen lại, khiến người nghe, nghe khen nhiều
lần, tưởng thật. Tưởng thật tạo nên ít nhất một điều
bất tiện, từ đó, nhiều người khác bị bắt phải nghe.
Hát hay như ca sĩ hay, không phải dễ. Thấy người
này dễ thương, hát sai cũng khen. Thấy người kia
dễ gai, hát hay cũng chê.
Nghe nhạc theo sở thích: nếu không đúng loại
nhạc ưa thích, nếu không phải bài nhạc quen
thuộc, chê nhiều hơn khen. Những lời khen chê
kiểu này không có giá trị, hơn nữa, làm mất giá trị
của người nói.
Nghe nhạc cũng như nhiều thứ khác, khi có kiến
thức và kinh nghiệm sẽ có cơ hội hưởng thụ nhiều
hơn. Biết phân biệt ca khúc nào là Art song (nhạc
nghệ thuật) và ca khúc nào là nhạc dễ nghe (easy
listening). Phân biệt được Blue và Jazz đã đành,
phải nghe ra sự khác biệt giữa light rock và jazz
rock, sự khác biệt giữa dân nhạc và dân ca và
nhạc sến.
Muốn thưởng thức nhạc, hưởng thụ vẻ đẹp nét hay
của bài ca, trước hết phải lắng nghe. Quan điểm
bình dân phổ biến nhất của thưởng thức là một ca
khúc phải mang mức độ ý nghĩa nào đó với một
giai điệu có giá trị, được trình bày với giọng ca trơn
tru, đúng nhịp, cử chỉ, hành động khi trình diễn ăn
khớp với bài hát, nghe và xem cảm thấy hài lòng.
Đó là một tiết mục hay. Hay kiểu này là vượt qua
được vòng loại, vào bán kết.
Muốn đánh giá một người hát hay, cứ tưởng tượng
như đang làm giám khảo.
45
Mạng lưới của Bemorchestrator về giám định tài
năng thi hát, viết rằng: Do not even consider
thinking of giving singers a good score just because
of his or their gimmick on stage. (Đừng nghĩ đến
việc cho người hát điểm cao chỉ vì những mánh lới
trên sân khấu.) Nghĩa là một người hát nên tập
trung vào việc hát, còn những phụ tùng ưỡn ẹo,
làm duyên, kiểu cọ, sẽ bị bớt điểm.
Một giọng ca hay, một người hát hay phải đạt được
một số điều kiện về kỹ thuật và nghệ thuật ca hát.
Đứng từ góc độ của một người bình thường nghe
nhạc, mức độ thưởng thức hơn trung bình, đây là
những điểm cần lược qua để công nhận một giọng
hát hay, một người hát hay, đậu bán kết, được vào
chung kết.
1. Chất giọng. Phẩm chất này bẩm sinh. Giọng
trầm, giọng cao, giọng khàn, giọng dễ thương,
giọng mỏng, … Mỗi chất giọng sẽ phù hợp với một
loại nhạc này nhiều loại nhạc khác. Ví dụ, giọng
khàn hát nhạc Blue, Jazz thì phù hợp hơn hát
thánh ca. Giọng cao thích hợp với nhạc có giai điệu
cổ điển. Người hát hay, trước tiên là người biết
chọn những bài hát phù hợp nhất với chất giọng
của mình. Một bản nhạc người khác hát hay, không
có nghĩa mình sẽ hát hay theo. Hát hay, trước hết,
phải có chất giọng độc đáo (như Nguyên Khang).
Thứ đến là chất giọng tròn trịa (như Trần Thái
Hòa). Nếu chỉ có chất giọng bình thường, lúc này
rất cần kỹ thuật và nghệ thuật giúp đỡ. Khi không
nắm vững vấn đề, có rất nhiều người buồn bã, giận
đời vì nghĩ rằng mình hát quá hay mà sao “thiên
hạ” không biết thưởng thức.
2. Pitch (nốt cao) và nhịp điệu. Hát mà trật nốt
cao, lên không đúng, giữ độ cao không được theo
độ dài là điểm đầu tiên bị đánh rớt. Hát lơ lớ mà
46
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
không biết, có thể vì tự nghe tiếng hát của bản thân
không chỉnh, nên phần não bộ không điều khiển
thanh quảng phát thanh đúng mức; cũng có thể vì
tập không kỹ. Hát sai nhịp cũng không thể làm ca
sĩ. Người tập bằng Karaoke thường vấp hai lỗi này.
Hát trật nốt và sai nhịp vì Karaoke không chủ
trương luyện tập, chủ yếu giúp những ai không biết
gì về nhạc, cứ theo ca từ và nhái theo giọng dẫn
đường sẵn có. Hát cho thành thói quen. Từ đó cứ
như vậy mà hát. Người nghe hát sành điệu có thể
nhận ra ai là ca sĩ thuộc phái Karaoke.
3. Khảng cách cao và thấp của giọng hát. Một
người hát hay phải có khả năng hát từ thấp lên cao
một cách rõ ràng trong tối thiểu hai quãng tám
(octave). Khi xuống thấp không bị nghẹt, khi lên
cao không bị ré. Khi chuyển tiếng hát từ ngực lên
óc không lộ sơ hở, không gây cảm giác khó chịu
cho màng nhĩ.
4. Phong cách phát âm và phát âm ca từ
(Enuciation và pronunciation)
Căn bản phát âm ca từ phải rõ. Cho dù giọng hay
cách mấy mà người nghe không hiểu ý nghĩa của
lời ca thì không thể thành công. Người hát có
nhiệm vụ bằng mọi cách mang ý nghĩa của ca từ
đến người nghe. Hát tiếng Việt: 1- Các vần đầu của
mỗi chữ phải phát âm rõ, 2- Phải có sự phân biệt
khác nhau giữa “chim” và “chiêm”, 3- Phải phát âm
cho được dấu hỏi dấu ngã, dấu huyền khác với
dấu nặng. …
Phong thái phát âm có tầm quan trọng hơn. Chúng
ta thường nghe nói, giọng hát sang trọng, giọng hát
dễ thương, giọng hát quê mùa, giọng hát điêu
luyện, giọng hát thùng bể, giọng hát kèn chữa lửa
… Mỗi tính từ diễn tả phẩm chất âm thanh của toàn
bộ phát âm. Nên cẩn thận khi hát ngôn ngữ ngoại,
47
trừ phi có khả năng phát âm như người bản xứ,
nếu không thì đừng. Nếu không, gặp bà Hồ Xuân
Hương sẽ bị trêu ghẹo “á ái uông” (đá cái chuông)
5. Cách sử dụng microphone. Nên nhớ,
microphone là người bạn thân duy nhất của người
hát trong phòng thâu cũng như ngoài sân khấu.
Cầm micro phone không cầm chặt như cầm dao
chiến đấu, không cầm trong tư thế liếm cà-rem,
cầm bằng những ngón tay như cầm cành hoa đưa
lên ngửi, không cúi xuống. Đừng ngửi quá xa, mùi
hương sẽ tản lạc. Ngửi quá gần dễ bị nhảy mũi.
Quy tắc, cách môi như một nụ hôn bị đẩy ra.
Tôi nghĩ, chính xác hơn, hát là tái tạo, từ vựng
“sáng tạo” dành cho tác giả sáng tác. Như vậy, hát
là tái tạo một ca khúc thành một ca khúc riêng tư
mang tính độc đáo của người hát. Định nghĩa này
khó hiểu nhất là cụm từ “tính độc đáo.”
Tính độc đáo của người hát thể hiện trong hai
phần: 1- Lề lối diễn đạt ý nghĩa của ca từ trong giai
điệu. 2- Nghệ thuật truyền đạt cảm xúc đến người
nghe.
- Mỗi ca khúc đều có một câu chuyện mang theo ý
nghĩa mà người nghe cần phải hiểu mới có thể
thưởng thức. Có những ca khúc phổ thông, ai cũng
đã từng nghe qua nhiều lần. Tuy nhiên, sự khác
biệt nằm ở chỗ người hát đã hiểu bài nhạc như thế
nào. Mỗi người hát đều có thể hiểu ở những mức
độ cao và sâu khác nhau rồi diễn đạt trờ lại, để
người nghe có cơ hội tiếp nhận một bài nhạc quen
thuộc trong một cách nào đó khác lạ.
- Quan trọng hơn, đó là năng lượng truyền cảm. Vì
sao tôi dùng chữ năng lượng? Truyền cảm không
chỉ là cách diễn tả trên mặt mày và tứ chi. Có sự
lầm lẫn khi nhăn nhó vì lời nhạc đau khổ. Nhưng tệ
hơn, nếu lời nhạc đang buồn bã mà người hát cười
48
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
cười, mặt mày nhơn nhơn. Nói một cách khác, mặt
mày và tứ chi chỉ là những tác động bên ngoài do
năng lượng cảm xúc bên trong thúc đẩy mà thành
hình. Năng lượng này khuấy động vô thức điều
khiển chất giọng, cách phát thanh, khả năng nhập
thần vào ca từ, để tiếng hát đi đến vỗ vai, vuốt má,
sờ mái tóc người nghe, gây nên sự hài lòng, thích
thú, đôi khi đê mê.
Nhắc nhớ, một người hát được nghe nhều tiếng vỗ
tay, chưa hẳn là người hát hay. Đôi khi vì họ có bà
con anh em bạn bè tham dự đông đảo hoặc họ có
địa vị, tiền tài khiến nhiều đôi tay bật lên vỗ tới tấp.
Khi một người hát nắm vững kỹ thuật hát, điểm còn
lại cao hay thấp được tính trên phẩm chất của
giọng ca và nghệ thuật truyền cảm, không chỉ là
giọng ca truyền cảm. (Ngày nay, người ta xem
truyền hình nhiều hơn nghe radio.) Ngoài ra, ở một
mức độ thưởng ngoạn cao hơn, người nghe có thể
“thấy” người hát dù chỉ nghe qua CD hoặc qua các
thiết bị điện tử. Tuy nhiên, một anh bạn nhạc sĩ của
tôi nói rằng, nghe nhạc ở mức thưởng ngoạn
thượng thừa, chỉ nghe âm nhạc, không thấy gì cả.
Có lẽ, anh nói đúng. Nhiều người nghe nhạc hay,
nhắm mắt, dựa ngửa, quên đời.
Chất giọng và truyền cảm là hai yếu tố chủ yếu của
hát hay. Nghệ thuật và kỹ thuật hát tất nhiên phải
thuần thục nhưng đứng sau hai yếu tố kia. Phụ nữ
nên cẩn thận khi gặp người đàn ông có chất giọng
tốt và biết nghệ thuật truyền cảm, nhất là giọng
trầm và thù thì. Anh ta có khả năng quyến rũ tình
nhân và có khả năng xin lỗi khiến cho vợ bỏ qua
mọi lỗi lầm, kể cả tội ngoại tình.
Ngu Yên
49
Truyện Ngắn Mã Lai
Leng Lui Is For Pretty Lady
Elaine Chiew
Ngu Yên dịch
Elaine Chiew là nhà
văn và nghệ sĩ tạo
hình, tác giả của tập
truyện
ngắn
The
Heartsick
Diaspora
(2019). Thắng hai lần
giải Bridport Short
story Competition ở
UK.
Người Mã Lai, tốt
nghiệp
đại
học
Stanford Law School.
Hành nghề ở New
York và Hong Kong.
Theo học MA tại
Asian Art History ở Lasalle Colledge, Singapore.
Leng Lui
Tên Gọi Người Đẹp
Ngu Yên dịch
(*) Leng Lui: Tiếng lóng dùng ở Mã Lai và
Singapore. Nghĩa là người đẹp, mỹ nhân. Tựa đề
này có nghĩa “Mỹ nhân dành cho người đẹp.”
Truyện Leng Lui Is For Pretty Lady được tuyển
chọn vào tuyển tập truyện ngắn thế giới: One
50
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
World, A Global Anthology Of Short Stories, Ovo
Adagha và Molara Wood, New Internationalist.
2009, New Internationalist Publication. ltd.
Mọi người đều nói, tôi được may mắn. May mắn, vì
bà chủ Kong cho tôi nhiều bộ đồ và áo đầm cũ mà
bà đã không dùng từ thập niên 1980, kể cả đồ lót.
Hầu hết, chúng không thích hợp với tôi. Nịt vú còn
tòong teng phần ren rách. Áo đầm quá trang trọng
để mặc khi kỳ cọ sàn nhà bếp hoặc leo lên quày
lau các kệ trên cao. Vì vậy, đôi khi tôi cắt áo dùng
làm vải lau chùi vì bà Kong cho rằng mua khăn lau
bát đĩa ở cửa hàng là khoảng chi phí không cần
thiết cho gia đình. Hoặc tôi tặng lại cho bạn bè, rồi
ngày Chủ Nhật khi đi chợ, thấy chúng treo trong
Trung Tâm Hồng Kông.
Maridel, có cánh tay từng khúc như củ sen hồng và
đôi mông mềm như quả lê chín, nói với tôi, - Alina,
chị không muốn mặc những cái khoác lếch thếch
trong nhà của em cho, dù miễn phí hay không. Tôi
nói, - chị may mắn được em tặng những áo này. Cô
ta nhún vai rồi kéo những sợi dây đã khéo léo may
lên đôi giày da lộn, mục đích giả dạng làm đôi ủng.
Tôi tiếp lời, - Đôi ủng này làm chị giống “chị em ta.”
Cô nhếch mép, - Thấy giống Pretty Woman không?
Cô biết tôi hâm mộ nhân vật nữ vai chính trong
phim này.
Không, tôi không thể nhận tôi may mắn như nhiều
người vẫn nghĩ, ít nhất là không thể so sánh với
Maridel. Bà chủ của cô không thức dậy cho đến hai
giờ chiều vì làm ca sĩ trong vũ trường, chỉ về nhà
lúc khuya. Do đó, Maridel muốn làm gì thì làm cho
đến mười giờ đêm, giờ cô đi ngủ. Tôi đã từng nói
với Luya và Febie, sự may mắn của chúng tôi tùy
thuộc vào công việc và tâm tình của bà chủ. Nếu
51
bà gặp phải một ngày không vui, chúng tôi sẽ lãnh
một ngày xấu.
Luya, mái tóc màu thuốc gội đầu Palmolive, thích
chống đối. Thường có ý kiền về mọi thứ. Cô nói
nếu bạn được giáo dục, trình độ cao hơn 140. 000
vú em, đầy tớ ở đây, chủ nhân sẽ thấy giá trị của
bạn và đối xử tốt hơn. Như thể là món đồ cổ Trung
Hoa, nếu nhìn kỹ sẽ thấy giá trị của mảnh gỗ nứt
mốc meo. Cô còn nói, thậm chí có thể là những
bậc thang leo lên các công việc tốt hơn như việc
dẫn khách trong nhà hàng hoặc một trợ tá văn
phòng. Luya hơi có vấn đề tâm thần, thái độ luôn
luôn ngoan cố trong mọi trường hợp. Tôi có bằng
cấp văn chương Anh ngữ từ đại học Manila nhưng
nhìn xem, học hành đã đưa tôi đến đâu. Giữa tôi
và Febie không có gì khác biệt. Cô ta nói tiếng Anh
bập bẹ nhưng cả hai chúng tôi đều phải thức dậy
lúc sáu giờ sáng đưa trẻ đi học, sau đó, nấu ăn dọn
dẹp suốt ngày, rồi phải nghe tiếng Hạc cầm rầy rà
từ bà chủ, - Ái da, sao cô không lau mặt sau
ngưỡng cửa, thấy chưa, bụi đóng lớn như viên chả
cá. (Viên chả cá, tôi học nhiều tiếng Quảng, cái lối
viết như gà bới trên báo chí khiến cho đời sống
trong thành phố này trở thành một bí ẩn khổng lồ)
Hoặc - Đúng là đồ ngốc, khi luộc gà phải luộc cho
đến khi dùng đũa đâm thử vào thịt và thấy nó dội
ra. Tôi phải cố nhịn nhục trả lời, - Không, thưa bà,
gà đã chết rồi, dù có đâm sẽ không dội ra.
Bà Kong nhìn tôi nghi ngờ, nhờ vậy, bà biết tôi có
học hành tử tế và nói tiếng Anh giỏi hơn bà. Luya
hoàn toàn sai bét về điều này - Nếu bạn có ăn học
đàng hoàng, bà chủ sẽ nghĩ bạn đang lên mặt, bà
sẽ rình rập những sơ hở sai lầm để trừng phạt. Bà
muốn bảo đảm bạn phải biết rõ thân phận của
mình. Ban đêm khi gát tay lên gối ngủ, tôi không
nghĩ đến những gì Luya kể lể, như chuyện Jose đi
52
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
chơi với cô gái nào đó, hoặc Abuela quỳ cầu
nguyện cho tôi mỗi ngày ở Santa Ana, hoặc
Juanita đứa bé ba tuổi nhìn bức ảnh tôi gửi về rôi
kêu “mẹ?” Không, tôi bận suy nghĩ cách đối phó với
bà Kong.
Febie thích gọi tôi “Leng Lui”. Một tiếng lóng của
người Quảng chỉ phụ nữ xinh đẹp. Febie học được
từ những người bán hàng rong ở Mongkok. Nhưng
tôi không rẻ tiền như Charina hoặc Fredahlia, họ đi
thuyền du lịch với người ngoại quốc, da trắng như
cá mập tại các câu lạc bộ ca nhạc ở Wanchai.
Charina và Fredahlia không hơn gì các cô gái
điếm. Họ nói, họ tân thời. Học hút thuốc lá, nhảy
hip-hop. Ai mà cần biết nếu họ lắc hông hoặc trổ nụ
cười rình rập với hy vọng cõng một trong những
con cá mập, sẽ mang họ đến Hoa Kỳ hoặc Luân
Đôn. Có thể nào bán linh hồn của mình để đổi lấy
một phòng vẽ tranh vải hoa sặc sỡ hoặc những
chiếc bình giả kiểu đông phương hoặc những lồng
hâm thức ăn bằng thép bóng sáng, phòng trò chơi
với nhưng con thú nhồi bông treo trên tường.
Không, tôi ở lại với những bộ phim ưa thích. Ling
Ling và Sdever, con bà chủ, dùng chung một máy
DVD. Sau khi chúng xem phim Thomas The Tank
Engine, tôi lén bỏ vào vài phút phim Pretty Woman
hoặc Officer and Gentleman, tất cả những chuyện
tình lãng mạn này bà Kong đã mua và theo dõi với
phụ đề chữ gà xới, bà nằm dài trong phòng khách,
đóng các cửa màn, hút thuốc liên tục, mặc lên cái
mai rùa ra vẻ thông thái, rồi rơi nước mắt vào chén
trà Ô Long.
Tôi mất rất nhiều thời giờ để xem hết một cuốn
phim vì chỉ xem được vài phút mỗi ngày, nhưng nó
mang lại gấp bội sự mong đợi ngọt ngào. Nhiều
lần, giữa lúc rửa chén bát và gọt hành tây, tôi mơ
53
mộng mình như nhân vật trong phim. Febie thường
nói tôi giống tài tử. Đôi khi, tôi mơ thấy mình đang
nói lời đối thoại trước ống kính. Chuyện này không
phải quá tầm tay, Kể cho Luya và Maridel nghe, họ
khinh khỉnh nói, tác hại của mơ mộng trong công
việc nhàm chán hàng ngày là gì? Giống như những
cạnh rìa bao bọc trò chơi ghép hình hoặc các trang
trong bìa sách. Tôi xem những câu chuyện tình
lãng mạn rồi mơ khi mình trở lại Manila, Jose sẽ ra
đón tôi tại sân ga xe lửa với bó hoa cúc trên tay và
con gái tôi đứng cạnh anh. Có phải quá xa vời
không?
Chuyện của tôi có thể tồi tệ hơn. Có thể giống như
Eliza-Eunice, nhận một cái chảo đập vào đầu vì bà
chủ tưởng cô ăn cắp 32 đồng Hồng Kông dằn dưới
cái gạt tàn thuốc. Một tuần lễ sau, cô đã qua đời
trong bệnh viện vì bị máu đọng trong não do chấn
thương. Ngay cả khi người chủ bị bắt nhốt tù, ai là
người thua thiệt? May mắn, bà Kong không thích
dùng đồ sắt để đánh đòn trừng phạt. Bà thích nhất
là cốc lên đầu một cú thật mạnh. Ông Kong dường
như không để ý đến sự hiện diện của tôi.
Nhưng điều mà chúng tôi lo sợ nhất là mất việc
làm. Nếu mất việc, chỉ có hai tuần để tìm việc mới,
nếu không, sẽ bị trục xuất. Maridel nói với tôi điều
này do một người Úc mà cô đã hẹn hò đã giải
thích. Ông nói, - Em biết không, đây là một bài toán
hóc búa. Nếu bị đuổi việc, sẽ khộng thể kiếm việc
làm mới trừ khi nhận được thư tha thứ của người
chủ đã đuổi mình. Dù tôi ngu lắm cũng hiểu được,
trừ khi người chủ cũ có lương tâm thương xót
người làm hoặc đơn giản là người chủ tốt bụng,
ngoài ra, bạn sẽ rất khờ khạo khi nghĩ rằng có thể
xin một bức thư giới thiệu từ họ. Đây là bài toán
nan giải.
54
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Ông bà Kong khá vui vẻ. Hai đứa con cũng bình
thường. Sdever thích gặm bông gòn. Ling Ling
thích dùng kéo cắt búp bê của nó. Bà Kong uống
rượu Nga trắng mỗi buổI chiều và khẳng định chỉ là
sữa thôi. Đôi khi bà có bạn bè đến nhà chơi mạt
chược. Giữa tiếng lách cách của các quân bài
ngắn đó, tôi có thể nghe tiếng phàn nàn của bà với
những phụ nữ đầy trang sức, mặc áo lông giả, như
thể đời sống đã bắt cóc bà và đòi tiền chuộc.
Ông Kong là giám đốc chi nhánh của HSBC. Đôi
khi, ông làm việc muộn, tôi không hiểu lý do vì chi
nhánh này đóng cửa lúc 5 giờ chiều. Khi tôi mới
đến giúp việc cho gia đình Kong. Rất có ấn tượng
về ông chủ nhỏ người nhưng bảnh bao, râu cạo
sạch sẽ, áo quần tề chỉnh, đôi giày sáng bóng và
có thói quen rửa tay hơn mười lần trong một ngày.
Một hôm trông thấy ông cắt móng chân rồi đổ vào
chậu cây trên bệ cửa sổ phòng ngủ. Khi đi tưới
nước, tôi vén lá ra, thấy dưới gốc cây một đống
móng tay móng chân.
Gần đây, ông đặt một củ cải bên cạnh chân đèn
ngủ trên bàn nhỏ. Buổi sáng, tôi tìm thấy nó, lòng
rất phân vân, mang củ cải cất vào tủ lạnh. Đêm đó,
ông Kong hối hả đi vào bếp, nơi ông ít khi đến, mở
tủ lạnh, lấy củ cải, rồi vội vả bỏ đi. Tôi kịp nhìn thấy
ánh mắt của ông biểu lộ điều gì bí ẩn làm lạnh tóc
gáy. Trước giờ đi ngủ, tôi lén thấy ông nói chuyện
với củ cải. Ngồi trên giường mặc bộ đồ ngủ đã
được ủi thẳng thóm, Đôi chân thòng xuống đặt lên
thảm. Ông nói những lời thật khó hiểu, trong khi
lồng ngực ưỡn ra, bật đôi vai thẳng. Có lẽ ông
đang trút tâm sự vào củ cải, vì ông và bà Kong ít
chuyện trò với nhau ngoài những chuyện lặt vặt về
con cái. Tôi kể chuyện này với Maridel, cô ta cười
như một người nhà quê. Cái gì, ông ta nói chuyện
với củ cải? Tại sao là củ cải?
55
Bà Kong hầu như không để ý, hoặc đơn giản là bà
không quan tâm. Bà đang ve vãn một anh chàng
trẻ, quản lý tiệm thuốc bắc ờ Sai Yeong Choi. Anh
ta cho bà xem một cái sừng nai khô, cả hai lấy tay
che miệng, cùng cười khúc khích. Anh lấy một cái
gì hình dài màu nâu trông giống như ngón tay, thì
thầm vào tai bà. Mắt bà Kong mở lớn, đảo tròn,
chuyển sang màu đỏ như vỏ trái thanh long. Anh ta
đột nhiên quay sang tôi, lớn tiếng nói tiếng Anh, Dương vật, dương vật đây này. Tôi cảm thấy tội
nghiệp cho ông Kong, đã làm việc chăm chỉ và cố
gắng trở thành người cha gương mẫu.
Nhưng cậu Sdever chỉ bạnh cằm ậm ự với cha.
Không biết cậu bé này có bị tổn thương trí não hay
không vì chỉ có người khờ khạo mới có cái miệng
méo xệch như vậy. Còn cô Ling Ling hoàn toàn
không đếm xỉa đến cha, chỉ chăm chú vào đồ chơi
khí cụ âm nhạc, búp bê, và bảng vẽ hình.
Nhưng rồi đến lúc mọi chuyện sôi sục. Nóng như
một quả trứng có thể luộc trên vỉa hè. Một hôm, bà
Kong chưng diện đẹp đẽ. Nói với tôi sẽ đến tiệm
thuốc bắc để mua một số thảo dược về nấu súp.
Tôi nói, - Thưa bà, em có thể đi giùm bà. Bà vẫy
tay từ chối, mang ví lên vai, dừng lại trước gương
soi treo trong hành lang, kiểm soát son môi, rồi đi
ra. Một giờ sau, vẫn chưa thấy về. Nhà giữ trẻ gọi
vì không ai đón cậu Sdever. Rồi nhà trường gọi để
đón Ling Ling. Tôi nói, bà Kong đang đến. Tôi bỏ
con gà vào chậu nước đầy, nhổ những lông trắng
ra khỏi khối thịt hồng. Lòng băn khoăn, có lẽ, họ
ham trò chuyện. Ai mà dám làm trò khỉ giữa ban
ngày?
Khi tôi đến tiệm thuốc, cửa sắt đã cài khóa. Nhìn
qua khe cửa không thấy ai, bên trong mập mờ màu
nâu tối, cảm tưởng như con cá sấu còn ngủ trong
56
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
vùng đầm lầy nóng hâm hấp. Chiếc quạt trần vẫn
xoay tít như cánh máy bay trực thăng. Tôi ngồi xổm
trên vỉa hè chờ khoảng 10 phút, 15 phút, rồi 20.
Không có dấu hiệu gì của bà Kong. Không chừng
bà chẳng đến nơi này mà đi tiệm Park N’ ở ngược
phía bên kia. Lấy tờ báo cũ quạt cho đỡ nóng, tôi
nghĩ đến cậu Sdever đang sợ hãi và cô Ling Ling
tức tối vì là người cuối cùng rời trường học. Bực
bội, tôi bật đứng lên, chỏ miệng vào khe cửa sắt, la
to. - Bà Kong, bà Kong! Bà xuất hiện, ăm mặc hở
hang, tóc rối lệch, son môi lem nhem. Bà hỏi giọng
lên án, - Em đó hả! Tôi không phải là người đang
mặc váy lót tụt xuống chân. - Alina, em làm gì ở
đây? Bà kéo áo ngoài che áo lót, vội vàng, cài dãy
nút sai chỗ. Anh chàng trẻ đứng phía sau, điếu
thuốc lập lòe, mặc quần lót bó sát và chiếc áo lót
màu trắng còn đẫm mồ hôi. - Thưa bà, em xin lỗi
nhưng Sdever và Ling Ling … Bà chận tôi lại, nói
tiếng Quảng rất nhanh với anh kia. Anh ta vội tiến
ra, mở khóa cửa, miệnh nhếch cười, mắt híp lại
dưới ánh nắng mặt trời. Bà bước ra nắm lấy tay tôi,
- Đi mau, đồ ngu. Bước rầm rập, kéo tôi đi như thể
tôi đã làm điều gì sai trái. - Mày không được nói
chuyện này với ai, nghe rõ không? Nếu lộ ra, tao sẽ
đuổi mày.
Nhưng ông Kong chắc đã đánh hơi được điều gì
khác lạ. Có lẽ, ông nhìn thấy bà cười khi soi
gương, đôi môi phồng dày hơn và đôi mông thêm
lúc lắc. Rồi đột nhiên, bà thả tóc dài bồng bềnh.
Đêm hôm sau, ông lại trò chuyện với củ cải. Thoạt
đầu, giống như ông đang thì thầm sát nó, nhưng
nhìn kỹ, tôi thấy ông đang hôn. Không chỉ hôn, lưỡi
ông dịu dàng liếm củ cải.
- Thưa ông
57
Ông thả củ cải xuống sàn như thả chiếc bánh giò
gà nóng.
- Thưa ông, trà của ông đây.
- Ừ … chưa cần… Ông lượm củ cải lên, nhìn nó,
ánh mắt như u sầu. Giọng điệu cộc lốc.
- Bà Kong đang đâu rồi?
- Bà xoa mạt chược ở nhà bà Chin.
- A … tôi quên. Còn tụi nhỏ?
- Thưa ông, đã ngủ rồi.
- Tốt, Alina Mang trà lại đây. Tôi cảm thấy mệt.
Khi tôi kể cho nhóm bạn đi nhà thờ nghe chuyện
ông Kong liếm củ cải. Họ chia thành hai phe. Có
thật không? Febie hỏi, mắt mở to, miệng há ra.
Maridel nói, - Có lẽ, ông ta cần sừng nai khô, sau
đó, không cần luyện tập với củ cải. Luya lắc đầu, Tao rất mừng đã không phải giúp việc cho bà chù
Trung Quốc. Họ tàn nhẫn và kỳ quặc.
Thực tế, nếu tôi kể lại chuyện đó, bà Kong sẽ đuổi
tôi. Meridel chế nhạo nhái tiếng Quảng, - Không
phải hăm dọa đâu, làm đổ đậu, tao sẽ đuổi mày.
Nghe giống như bà Kong, thật đáng ngạc nhiên. Gọt vỏ khoai không đúng, tao sẽ đuổi mày. Dọn
phòng tao không sạch, tao sẽ đuổi mày. Tôi nói, Meridel, mày biết gì về chuyện dọn dẹp, bà chủ
mày chỉ cần quét nhà mỗi năm một lần. Luya vỗ vai
tôi, - Này, không có gì đâu, không có gì sẽ xảy ra,
mày may mắn vì mày đã biết chuyện bí mật của họ.
Những buổi chiều thăm viếng tiệm thuốc bắc và
ông Kong hành hạ củ cải vẫn tiếp tục diễn ra. Tôi
xem thêm nhiều phim tình lãng mạn. Mỗi lần ngồi,
xem một khúc. Pretty Woman, còn vài lần nữa mới
hết. Tôi dám ra ngoài phòng khách với màn cửa
kéo lên, đôi khi uống rượu Nga trắng. Một buổi tối,
58
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
khi đang thay nước trong bình hoa ở hành lang,
nhìn vào gương soi treo trên tường, tôi nói lời đối
thoại của phim Pretty Woman, đoạn nàng nói về
một công chúa bị nhốt trong tòa tháp. Đột nhiên,
nhìn vào gương tôi thấy ông Kong đang theo dõi
tôi. Nhưng ánh mắt ông không giống như các anh
ngoại quốc ở khu thương mại Central, công khai,
dâm đãng, ông Kong nhìn tôi bằng ánh mắt đáng
sợ qua bản lề khe cửa vào nhà bếp.
Rồi, một buổi chiều, khi vừa lau xong sân thượng
bên ngoài, tôi bước vào, bà Kong đang đứng giữa
hành lang với chiếc va li căng phồng, Tôi hỏi, Thưa bà?
- Alina. Gọi ông Kong ở sở làm nhắn ông đến đón
hai đứa nhò. Em nhớ làm món trứng chiên cho
chúng ăn tối. Tôi không muốn Ling Ling thức quá
khuya. Nếu chúng khóc, nói với chúng tôi sẽ gọi về
từ Phuket.
- Thưa bà, từ Phuket?
- Đúng, tôi đi nghỉ mát. Tuần sau sẽ trở về.
- Nhưng ông nhà có biết chuyện này không?
- Không, ông không quan tâm đâu. Bà nhếch nụ
cười cay đắng rồi bỏ đi. Tôi một mình với hai đứa
trẻ.
Chưa bao giờ gọi ông Kong ở văn phòng. Tôi run
rẩy hỏi, - Làm ơn, cho gặp ông Abdrew Kong. Ngay
sau khi một phụ nữ nhanh nhẹn bắt máy trả lời
bằng tiếng Quảng. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thay vì
tra hỏi, cô chỉ nói, - Chờ một chút.
Khi ông Kong bắt điện thoại, lời nói của tôi dính vào
miệng nặng như đá.
- Hello, ai đó?
- Thưa ông Kong, bà đã đi Phuket,
59
- Ai vậy?
- Thưa ông, Alina.
- Chuyện gì vậy, Alina. Giọng nói ông đanh lại đầy
ngạc nhiên
- Thưa ông, Bà Kong đã đi Phuket, Bà nói, tuần
sau mới trở về. Bà nhờ ông đón đưa hai em. Bà đã
đi rồi.
Đầu dây bên kia, hoàn toàn im lặng.
- Lúc mấy giớ? Sau cùng, ông lên tiếng, giọng mệt
mỏi, tôi nghĩ là, u ám. Nghe không thấy giận dữ,
như vậy, tôi sẽ không bị đánh đòn bằng cái chảo.
- Thưa ông, bà đi lúc 4 giờ.
- Không phải, tôi muốn hỏi, mấy giờ đi đón hai đứa
nhỏ?
- Ô, thưa ông, 5 giờ. Trễ nhất là 5 rưỡi.
- Chết thật! Chỉ còn 10 phút nữa là 5 giờ.
Đêm đó, nghe nhiều tiếng cãi vã, cậu Sdever khóc
sụt sịt ngay cả khi đã ngủ. Một vệt nước mũi màu
vàng chảy dài trên má. Ling Ling quăng từng con
búp bê vào tôi cho đến khi không còn con nào. Tôi
lượm chúng lên và cất vào rương đồ chơi. Cô lại
mở rương lập lại cơn giận dữ này, trong khi ông
Kong ngồi trong nhà bếp đọc báo, nhưng tôi để ý
thấy ông chỉ nhìn một trang trong cả tiếng đồng hồ.
Cuối cùng, Ling Ling mệt mỏi bỏ đi ngủ, đám búp
bê tung tóe khắp sàn nhà, kể cả những chiếc đầu
bị cắt bằng kéo bén.
Vài ngày tiếp theo, tôi rán làm mọi thứ có thể được
cho gia đình ông Kong. Những người này trông
như tàn phế, như thể bị thương tật một chân, chỉ
có thể đi đứng khập khiễng. Cậu Sdever không
chịu ăn, mặc dù tôi cố gắng dụ dỗ bằng những món
60
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
ăn chiên mà cậu ưa thích. Nấu món súp gà thuốc
bắc cho ông Kong. Ling Ling muốn viết thư gửi cho
mẹ. Mang giấy bút cho cô, nhưng cô lại vẽ một con
bạch tuột lớn đang quấn mặt trời. Tôi hỏi,- Em vẽ
cái gì đây? Cô trả lời, - Phuket. Ông Kong vẫn tiếp
tục xoa bóp củ cải, chậm rãi, thận trọng, mắt ông
theo dõi tôi. Ban đêm, tôi lại bận tâm về Jose. Cố
gắng không nghĩ đến chuyện anh ta hẹn hò với cô
gái khác. Rồi trí óc lại ngập tràn hình ảnh bà Kong
ở Phuket với chàng trai tiệm thuốc bắc.
Đã 10 ngày qua, không thấy tăm dạng bà Kong.
Đêm hôm đó, tôi hỏi ông Kong. - Thưa ông, ông có
định đi tìm bà không? Ông đang húp súp, ngước
lên, Từ khi bà Kong ra đi, ông nài nỉ tôi ăn tối chung
với gia đình. Những bữa ăn này đầy im lặng nặng
nề, chỉ nghe tiếng leng keng của thìa súp trong tô
đựng. Hai đứa trẻ đi ngủ, tôi và ông ngắm nhìn vỏ
cây, nấm, đậu phụ khô, trộn trong sữa máu nâu,
thỉnh thoảng một cổ gà nổi lên khi tôi khuấy bằng
cái muỗng lớn. Bây giờ ông nhìn lên như tôi đã nói
bằng thổ âm Tagalog.
- Nếu bà muốn trở về, sẽ trở về. Ông thở dài đầy u
uất.
- Nhưng, có lẽ, ông nên gọi điện thoại cho bà. Tôi
nhìn thẳng vào các con số gọi Phuket, viết nghuệch
ngoạc to tướng băng ngang tấm lịch, treo trên đầu
chiếc kệ đựng đồ gia vị.
- Bà đang đi nghỉ mát, không muốn bị làm phiền.
Cô đã biết như thế nào khi bà bị quấy rầy trong lúc
đang làm chuyện gì khác.
Vâng, tôi biết, cốc, cốc, những cú gõ lên đầu
nhưng tôi không nói như vậy chỉ cắn môi.
- Ông sẽ làm gì nếu bà đi luôn? Ông bỏ thìa xống,
ôm lấy đầu. - Alina, tôi không biết. Ông trông buồn
61
thảm và bối rối, cảm thấy ái ngại cho ông. - Hừm …
Món gà nấu hạt vừng này, ông thấy thế nào?
- Tôi không thể nghĩ gì về món ăn. Ông nói như
rên. Rồi nhìn lên, đôi mắt long lanh như vỏ dưa
hấu láng. Đột nhiên, đặt bàn tay lên cánh tay tôi,
một móng vuốt màu sữa nhạt. - Alina, tôi không
cần bà Kong.
Phản xạ tự nhiên giật mình khiến tôi đánh rơi chiếc
muỗng, nước súp làm ông bị bỏng. Ông rút tay lại
thật nhanh. Sợ hãi, tôi đẩy ghế ra sau, chụp lấy
khăn lau chén bằng vái váy cũ của bà Kong để lau
khô tay ông. Lần này, ông nắm chặt tay tôi, không
chịu buông ra. - Alina, nghe tôi nói. tôi đã mất một
thời gian dài để lấy can đảm nói lên điều này. Chúa
biết, tôi lớn tuổi hơn em quá nhiều, tôi lại có vợ có
con. Tuy hơi đột ngột, nhưng hãy cho tôi cơ hội, em
sẽ thấy mọi chuyện xảy ra tốt đẹp.
Đầu óc tôi lộn xộn cố ghép những lời nói vừa nghe
với ý nghĩa khó tin.
- Thưa ông? Run rẩy, tôi cố giật mạnh cánh tay ra
khỏi tay ông.
Nhiều tháng sau, có lẽ tôi sẽ còn nhớ tư thế dằn co
này: Một nửa người tôi bật lên khỏi ghế, một tay
cầm khăn lau đưa ra, một tay bị ông Kong kéo lại,
Trong khi ông vẫn ngồi như ngang nhiên giữ vững
cuộc sống, nước súp trào chảy xuống cằm ông.
Cụm chữ duy nhất hiện lên trong đều tôi lúc đó là
“kẹt rồi.”
- Alina, anh đã nghiền ngẫm cách hay nhất để giải
quyết vấn đề này, làm sao có thể thuyết phục được
em theo ý anh. Em có biết vì sao đôi khi anh về
muộn ở lại văn phòng không? Vì anh sợ không thể
kiểm soát, sẽ bộc lộ tình cảm của mình.
Lần này, tôi xoay sở cách khác để thoát thân.
62
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
- Nhưng dường như anh không thể tự ngăn cản
mình. Khuôn mặt của em hành hạ anh mỗi ngày.
Trong văn phòng, anh phát giác mình đang tập nói
những gì sẽ nói với em. Về nhà, tưởng tượng tràn
ngập khiến anh nghẹt thở. Đáng lẽ, em và anh phải
là người đang ở Phuket bây giờ. …
- Về nhà? Tôi hỏi một câu hết sức ngu ngốc nhưng
những thắc mắc trong tiềm thức đã vùng vẫy để
bộc lộ ra ngoài.
- Vâng, rất nhiều lần anh biết em đã nghi ngờ, cách
anh luyện tập để mở đầu. Em có nghe anh tập
những câu nói đó không?
Cuộc tập dợt này nghe có vẻ giống như một bộ
phim dở?
- Em có thấy anh luyện tập trước để không đến nổi
vụng về?
Từ đôi môi tôi lời nói tự động vụt ra, - Củ cải?
- Đúng, em yêu của anh, củ cải chính là em.
Một làn sóng ghê tởm, sâu thẳm và choáng váng
cuồn cuộn trong tôi. - “Thưa ông, thả tôi ra. tôi yêu
cầu, tôi xin ông.” Tôi vặn nắm tay ông ra nhưng chỉ
giúp ông đứng dậy, ôm lấy eo tôi.
- Ô, Alina, chúng ta có thể là niềm an ủi cho nhau.
Đặc biệt là bây giờ.
- Đừng nói nữa. Thả tôi ra, tôi lạy ông.
Kẹt rồi, kẹt rồi, kẹt rồi, trong trí tôi vang lên như
tụng kinh. Vùng vẫy tuyệt vọng, tâm trí tôi xoay
quanh sự chọn lựa: khuất phục hoặc mất việc làm.
- Alina, cùng nhau chúng ta sẽ tạo ra hạnh phúc.
- ông đang bị rối loạn, nhưng … Chưa nói hết câu
thì miệng ông đã ngoạm lấy miệng tôi, chiếc lưởi
như con thằn lằn bò qua khe nứt trên bức tướng.
63
Tôi xoay sở quay người thoát ra như đã xem tài tử
làm trong phim. Tôi bật đầu gối lên một cú nhanh,
tông mạnh vào hạ bộ . Ông gập người xuống, ôm
lấy háng, thả tôi ra. Kẹt rồi, kẹt rồi, kẹt rồi tôi giáng
cùi chỏ xuống giữa hai xương vai như một thế
đánh Karate chính xác. Trong lúc ông đưa một tay
vòng ra sau lưng, ngẩng mặt lên, tôi cung tay nắm
cú lại rồi tống vào một con mắt của ông. Cuộc lộn
xộn đã kết thúc nơi bàn ăn, tô súp nóng chao đảo
rồi đổ xuống đôi chân trần, ông kêu lên, ngả nhào,
lăn lộn trên sàn như con tôm luộc.
Tôi vén lại những lọn tóc lòa xòa trên trán. Nhìn ra
thấy bà Kong đang đứng ngay ngưỡng cửa với làn
da rám nắng, há hốc miệng.
Pandernonium (địa ngục) bắt đầu bằng chữ P như
chữ Police (cảnh sát). Họ điện đàm kêu lách cách
qua lại. Ông Kong đắp một túi nước đá lên mắt
(Người ta có thể thấy hai bàn chân ông đang
phỏng đau, chỉ đơn giản bị uống nước súp. Tôi
nhận ra, À, thưa kiện. Trong lúc ông cành sát
Chan, đầu lắc lư khi lắng nghe bà Kong nói.) Bà
hút thuốc và đưa ra lời buộc tội. Bà không nhìn tôi
khi nói với ông Chan, tôi đã có âm mưu làm tình
nhân của ông Kong từ lúc mới vào giúp việc.
-Tất cả những cố gái vú em, đầy tớ xinh đẹp đều có
hành vi đĩ thõa. Ông Chan nói và nhìn tôi bằng ánh
mắt lạnh lùng muốn giết người. Khi họ mang tôi đi,
tôi quay lại nói: - Thật giống như chuyện trong
phim, bây giờ, tôi đang đóng phim.
Trải qua một đêm trong phòng giam ở Hồng Kông,
những vách tường xi măng bịt bùng không cửa sổ,
và những song sắt làm tôi nhớ lại những chiếc lồng
mà bà Abuela nuôi những con gà trống quí giá.
Nằm ngủ trên bậc thềm xi măng lạnh lẽo không có
mền đắp. Sâu trong đêm tối, trái tim tôi khao khát
64
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
được ôm đứa con gái vào lòng và thét gọi Jose.
Nhưng anh ta không thể nghe tôi bây giờ. Cất tiếng
hát dịu dàng cho chính mình nghe những bản nhạc
bà Abuela đã dạy tôi từ bé. Tiếng hát của tôi khiên
tôi hoảng sợ.
Sáng hôm sau, một cảnh sát gọi tên tôi rồi mở cửa
phòng giam, Sợ không biết anh ta sẽ đưa mình đi
đâu, tôi nằm lì trên bậc thềm, mở mắt to, thở dồn
dập. Anh ta nói – Cô được trả tự do. Tiếng vang
vang dội quanh bức tường. Nhìn ra ngoài phòng
chình, thấy bà Kong trong bộ áo đầm màu bạc. Bà
liếc nhìn tôi rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra cửa. –
Nhanh lên, đồ quỉ, đêm hôm qua, mày đã cho tao
nhiều phiền phức, bây giờ tao còn phải trả tiền bảo
lãnh. Sẽ phải trừ lương của mày, hiểu chưa?
Bất chợt, tôi cảm nhận sự cay đắng đâm xuyên
qua người. Tôi không cảm thấy biết ơn. Bà có
quyền lực. Đáng lẽ tôi phải vui mừng vì không bị
ngồi tù, nhưng chỉ cảm thấy nhẹ nhõm.
Cửa trạm cảnh sát mở ra, một luồng gió ẩm ướt từ
ngoài thổi vào, mang theo mùi hương ngọt ngào.
Người cảnh sát trả lại tôi chiếc đồng hồ. Tôi hiểu
được, anh đang thắc mắc tại sao tôi không nhận,
Trên xe, bà Kong nói, - Sdever không chịu ăn khi
tôi đút cho nó, Ling Ling hành động như con khỉ
trên rừng. Sau cùng, bà nhìn tôi, mặt bà trang điểm
như búp bê trên các bình sứ Trung Hoa. Đó là
những gì tôi nhìn thấy trong mắt của bà, đột nhiên,
hiện ra gần gũi như một bóng đen phủ xuống tim
tôi. – sự điên rồ và sân si – Tôi nhận ra bà thật sự
thất lạc khi không có tôi. Tôi là mảnh ghép nối gia
đình bà lại với nhau. Bây giờ, tôi mới bắt đầu hiểu.
Ngu Yên
65
Trước Khi Phù Sa, Là Bùn
Ngu Yên
Mặt trời là ngôi sao tự phát ánh sáng.
Những ngôi sao mượn nắng
tên mặt trăng.
Trái đất là mặt trăng ngẫu nhiên có sự sống.
Người dòng trời tự phát ánh sáng
từ tâm trí sáng tạo bốc lửa
Người dòng trăng sống bám người trời
Người đất là người trăng nhiều tính xấu.
Thế giới không khác gì vũ trụ
Xã hội tương tựa ngân hà
Chứa ít người trời, nhiều người trăng,
vô số người đất
Có đất thủy tinh, đất thạch nham, đất khô,
tệ nhất là đất bùn
vừa hôi vừa bám gót giày.
Tôi chắc bạn đọc muốn biết tôi là gì
xin tự khai báo
tôi là đất phù sa
một loại bùn thúi chờ trăm năm sau mới trồng trọt
66
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Hãy Vịn Âm Nhạc,
Mà Đứng Lên
Ngu Yên
Triết gia Plato chủ trương mọi người đều phải học
nhạc, nhất là giới thanh thiếu niên, ngoại trừ tập
luyện thể dục cho thân thể cường tráng, phải học
và thực hành âm nhạc. Trong tác phẩm cao quí
Republic (Cộng Hòa) của ông để lại, Plato viết:
“Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được
sự điều hòa và nhịp điệu, do đó, ý thức được công
lý. Sự điều hòa không bao giờ đi đôi vời sự bất
công. Nhạc lý sẽ xâm nhập vào linh hồn con người
khiến cho linh hồn trở nên đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ
uốn nắn tính tình con người và do đó đem đến một
giải pháp tốt đẹp cho các vấn đề xã hội và chính trị.
Mỗi khi tiết cấu của âm nhạc thay đổi thì các
nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.“
(Câu Chuyện Triết Học, Will Durant, Trí Hải và Bửu
Đích dịch, trang 43.)
Đọc đoạn văn này, tôi rất ngạc nhiên về vai trò và
sức mạnh cải hóa của âm nhạc; ngờ rằng ý tưởng
của triết gia cổ đại đã quá cổ hủ, không còn phù
hợp với thời đại tân kỳ hôm nay, thế kỷ 21. Nếu tìm
hiểu tiểu sử của các nhạc sĩ tài danh, các ca sĩ nổi
tiếng, hầu hết cuộc sống của họ trụy lạc, ngụp lặn
vật chất, nếu không có những kết thúc tồi tệ, thì
cũng không mấy kẻ được an lành. Nếu họ là những
người kề cận, sống chết và rao truyền âm nhạc mà
còn như vậy, huống gì đám người dân thường.
67
Rồi Will Durant (1885-1981) một triết gia và lịch sử
gia, một nhà văn thông thái với tác phẩm lừng lẫy
Story of Civilization (Câu Chuyện Văn Minh Nhân
Loại) được sáng tác cùng với vợ ông, Ariel Durant,
trong 40 năm (1935-1975) đã ghi chú về đoạn văn
của Plato. Durant viết: “Âm nhạc chẳng những sửa
đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn
hoặc bảo đảm sức khỏe. Dân Corybantic có tục lệ
chữa trị các phụ nữ mắc bệnh điên bằng âm nhạc.
Một khi điệu nhạc trổi lên các bệnh nhân sẽ nhảy
nhót một cách cuồng loạn cho đến khi kiệt sức và
nằm ngủ. Sau giấc ngủ đa số bệnh nhân đã bình
phục. “ Trong đoạn văn tiếp theo, ông Durant cho
chúng ta thấy hiệu quả kỳ diệu của âm nhạc.
“Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức được
khơi động bởi những phương pháp (nghe nhạc
nhảy múa) kể trên. Những kẻ xuất chúng là những
kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ cõi vô
thức. Không một người nào trong trạng thái hữu
thức có thể có những ý nghĩ xuất chúng. Những
người xuất chúng và những người điên giống nhau
về điểm này.” (Trích cùng sách, trang 44.) Không lý
nào, một triết gia hạng tôn sư cổ đại như Plato và
một triết gia hàng đầu trong thế kỷ 20, Will Durant,
cùng nhau bày tỏ khả năng kỳ diệu của âm nhạc,
mà cả hai đều sai lầm?
Không, họ không sai. Bằng chứng là ngày nay,
những kinh doanh về sức khỏe thể xác cũng như
tâm thần, nhất là, đầy dẫy trên internet những
chương trình luyện tập thân xác, tu dưỡng tâm trí,
kể cả trị liệu bệnh mất ngủ, bệnh bị căng thẳng,
bệnh áp huyết cao, bệnh tâm trí … đều sử dụng
âm nhạc, nhiều loại âm nhạc khác nhau, đi cùng
với hoạt động cơ bắp để giúp cho tâm trí dưỡng
thương, hồi phục bình an và thể xác khỏe mạnh.
Vậy thì, vai trò và hiệu quả của âm nhạc không thể
68
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
xem thường. Mỗi đời sống, nhất là những cuộc đời
thất bại, tuyệt vọng, u ám, buồn rầu … nên tìm đến
âm nhạc để tiêu hao bớt nỗi niềm tiêu cực, hướng
đến lạc quan.
Plato nhìn âm nhạc qua tư tưởng triết học. Con
người sống theo sức tranh giành giữa sở thích và
lý trí. Sở thích thắng thế thường cho phép tình cảm
lộng hành, chỉ huy suy nghĩ và hành động. Nó có
khả năng kéo theo những sở thích kém hoặc không
có phẩm chất. Những ai có lý trí mạnh sẽ kềm chế
được những sở thích dục vọng hoặc kiểm soát, chỉ
cho phép chúng tung hoành trong một khu vực
nhất định. Những nghệ sĩ âm nhạc, chuyên nghiệp
hoặc tài tử, bao gồm những người yêu nhạc, nghe
nhạc như một sở thích ưu ái, thông thường họ
thuộc về loại người nặng tình cảm. Nghĩa là sở
thích thường xuyên thắng thế. Họ có đời sống vắng
mặt của ý chí, khi dể lý trí, và hành động theo sức
lôi kéo của con tim. Nếu sở thích được tự ý dẫn
đường, nó sẽ trở thành sở dục, bao gồm nhiều dục
vọng khác nhau, nhắm vào sự hưởng thụ của thân
xác. Tiền thân của thân xác là thú vật. Một khi con
thú đã đắm chìm vào những đòi hỏi của đam mê,
ghiền cảm giác khoái lạc, thì nó khó quay về với
ánh sáng khôn ngoan và minh triết.
Lối sống đó thường sung sướng, thỏa mãn lúc ban
đầu, nhưng dần dần sẽ rơi vào đen tối, chán
chường, kiệt quệ, bệnh tật, tử vong. Ông Durant
nhận xét, người nhạc sĩ chỉ hiểu biết và yêu thích
âm nhạc thường bị nó làm cho tâm hồn mềm yếu,
(trang 45). Những nghệ sĩ trụy lạc, ngụp lặn vật
chất, nghiện rượu, hút cần sa bạch phiến, bệnh
tâm thần, thậm chí tự tử, không phải vì nghệ thuật,
âm nhạc mà vì không kềm chế được sở dục. Trong
một số trường hợp, họ chấp nhận theo sở dục đến
tận cùng như thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt.
69
Vì vậy, sở dục vật chất tuy không phải là đối nghịch
với hạnh phúc, nhưng là nguyên nhân và phương
tiện để đánh mất hạnh phúc. Theo triết gia Arhur
Schopenhauer (1788 – 1860), sự yếu thế hoặc sở
dục bị kềm chế sẽ cho phép hạnh phúc nẩy nở và
mở rộng. Ông đề nghị âm nhạc như tấm gương soi
về sở dục để con người nhận diện sở dục của
chính mình. Ví dụ: “Em ơi nếu mộng không thành
thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?”
(Duyên Kiếp, Lam Phương.) Lời hát thể hiện một
dục vọng ham muốn ái tình, dành cho những ai
đang băn khoăn trước ngưỡng cửa tình yêu. Còn
như, “nếu biết rằng, tình là dây oan, nếu biết rằng
hợp rồi sẽ tan, nếu biết rằng yêu là đau khổ, thà
dương gian đừng có chúng mình.” (Sang Ngang,
Đỗ Lễ.) là gương soi cho những tâm hồn đau khổ
với ba lần “nếu” một lần “thà”. “Ta ước mơ một
chiều thêu nắng, em đến chơi quên niềm cay đắng
và quên đường về.” (Em Đến Thăm Anh Một Chiều
Mưa. Tô Vũ.) Một giấc mơ đẹp lan man ẩn ý một
điều gì.
Ông Schopenhauer viết, “Âm nhạc tuyệt nhiên
không giống những nghệ thuật khác, vốn mô phỏng
những ý tưởng hay tinh thể của sự vật, âm nhạc là
sự mô phỏng chính ý dục, Đây là lý do vì sao tác
dụng của âm nhạc mãnh liệt hơn, sâu xa hơn
những nghệ thuật khác vì những nghệ thuật khác
chỉ nói đến cái bóng, trong khi âm nhạc nói ngay
đến chính sự vật.” (trang 425,) Điểm lợi hại nhất
của âm nhạc đã được Schopemhauer vạch trần.
Ca từ là những đối thoại, độc thoại của trí tuệ sáng
tác đối với tâm tình thưởng ngoạn; là sự truyền đạt
từ ý thức sáng tạo đến vô thức lắng nghe. Vì sự lợi
hại đó đã cho chúng ta được thưởng ngoạn biết
bao nhiêu lời hay ý đẹp của văn chương, văn hóa.
Nhạc đã hiến dâng cho chúng ta những nét mỹ
70
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
miều của giai điệu và những suy tư đã biến thành
tinh chất qua cảm xúc trong ca từ. Như, Có đám
cây trên đồi sống trong trong mơ hồ. Ngày nào tròn
trăng lại nhớ đến tích xưa. Khi tướng quân qua đồi,
kéo quân, quân theo cờ, đoàn cỏ cây hãy còn trẻ
thơ cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già,
mà chờ người đi mất từ ngàn xưa. Nàng đứng ôm
con, xem chàng về hay chưa? (Hòn Vọng Phu 3,
Lê Thương.) Tả cảnh đợi chờ vừa đẹp, vừa hay,
vừa ấn tượng, vừa cảm động, như vậy là cùng, khó
ai tả hơn được. Chẳng phải người nghe cảm thấy
thú vị hay ho, thu thập được điều gì cao hơn, trước
khi nghe?
Ông Durant nhìn âm nhạc trong khía cạnh tâm lý.
Ông nhận xét rất đúng. Nếu biết đem ưu điểm của
âm nhạc nhập vào vô thức, sẽ hưởng dụng nhiều
khả năng kỳ diệu của âm nhạc. Hãy bước vào giáo
đường đêm thánh lễ, nghe những thánh ca bay
bổng trên không trung, phải chăng tâm hồn ta
thanh thoát, cảm thấy trong sạch và an vui? Hãy
lắng nghe âm nhạc trong buổi lễ mừng ngày Phật
Đản, phải chăng ta có thể hiểu thấm thía câu nói,
buông dao đồ tể thành Phật? Nghe một bản nhạc
classic hay, nghe một khúc đàn cò thê lương, nghe
một buổi trống trận do người Nhật trình bày …Phải
chăng người nghe có cảm giác chạm được nét đẹp
điều hay của âm nhạc? Nếu xem phim mà không
có nhạc, chắc chúng ta sẽ cảm thấy thiếu thốn và
mau chán?
Nếu âm nhạc có thể xâm nhập vào vô thức để mở
ra uy lực của tiềm thức, con người sẽ còn tìm thấy
nhiều điều ngạc nhiên về âm nhạc. Khả năng và
hiệu quả của âm nhạc khó có thể trình bày mọi
khía cạnh của nó cho dầy đủ vì đây là một công
việc còn đang tiến hành. Không phải tự nhiên mà
71
triết gia Friedrich Nietzsche viết: “Đời sẽ là một lầm
lỗi nếu không có âm nhạc.” (Thư gửi Baudes.)
Chưa kể các triết gia đông phương, chỉ lược sơ
qua vài nhà tư tưởng tây phương thời cũ, chúng ta
đã có khái niệm sơ khởi về ảnh hưởng của âm
nhạc trong cuộc sống hàng ngày. Tác dụng trên
tâm lý vượt qua những xoa dịu buồn bã, ưu tư, giải
tỏa những nặng nề khó thở, được sử dụng để điều
chỉnh, điều trị những thương tổn trong tâm hồn, Âm
nhạc còn sánh vai với những sinh hoạt khác như
thể dục, tu tập, sinh hoạt cộng đồng để kích thích
thần kinh và tâm trí.
Ngoài ra, điều mà tôi yêu thích khi thưởng thức
những bài hát là nghe ca từ. Ở đó, một kho tàng
văn chương, văn hóa vĩ đại, cho chúng ta thêm
những hiểu biết bên lề lịch sử, thu thập những điều
hay vẻ đẹp của ý tưởng và cảm xúc mà kinh
nghiệm riêng của một người chưa có dịp trải qua.
Có thể nói, âm nhạc là một cây gậy vô hình mà mỗi
người chúng ta có thể sử dụng chống đi trên
đường đời đầy trơn trợt và cạm bẫy. Khi trật chân,
chống gậy mà đi. Khi ngã xuống, chống gậy đứng
lên. Khi nằm xuống, chống gậy ngồi dậy.
Lần cuối cùng khi nằm xuống, bạn tôi, nhạc sĩ Lê
Uyên Phương đã để những ca khúc do anh sáng
tác và vợ chồng anh trình diễn suốt những giờ
ngày trong nhà quàn. Linh hồn anh đã chống cây
gậy của mình đứng lên, đi về thế giới khác, trong
khi bạn bè, người thân, chia tay, chống gậy đi về
với bùi ngùi
Ðời mãi mãi mãi cách xa. Dòng nước mắt nóng tiễn
đưa, xin cho lần cuối
Tình ấy đắm đuối thiết tha vì qua bao nhiêu điêu
linh, xót xa, đắng cay, trong đời...
72
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Màn đêm mở huyệt sâu.
Mộng đầu xin dài lâu.
Một vì sao lạ rơi,
nghe hồn tê tái, trên dòng hương khói bay …
Ngu Yên. Houston. Tháng 8, 2021.
73
Kịch 10 phút
Moths
Don Nigro
Bướm Đêm
Ngu Yên dịch
Don Nigro, Kịch tác gia Hoa
Kỳ. Lãnh giải Playwright’s
Fellowship Grant, National
Endowment For the Arts,
Mary
Roberts
Rinehart
Foundation, và Ohio Arts
Council.
Hai vở kịch nổi tiếng của
ông: Anima Mundi và The
Dark Sonnets of the Lady.
Sinh ngày 3 tháng 9 năm 1949. Lớn lên tại Ohio và
Arizona. Ra trường cử nhân đại học Ohio State,
Tiến sĩ Fine Arts đại học Iowa năm 1979. Hiện làm
giảng sư cho các đại học như Massachusetts
Amerst, Indiana State, đại học Iowa, Kent State …
Bướm Đêm
GIỚI THIỆU:
Đã có ngày, tất phải có đêm. Đã có thức, tất phải
có ngủ. Đã có tỉnh tất phải có điên. Thế giới luôn
luôn hiện diện với lưỡng nghi. Không ai có thể chỉ
sống trong một mặt của lưỡng diện. Vỡ kịch cho
người đọc một cảm giác thương tâm và chia sẻ
những băn khoăn bình thường của người mẹ bất
74
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
thường. Thế giới bất thường là mặt bên kia của thế
giới bình thường. Bất thường là phiên bản âm của
bình thường. Cả hai chỉ là một. Những thiếu hụt và
dư thừa của bình thường được tồn trữ trong bất
thường.
Ghi:
Bướm đêm, người bình dân còn gọi là bướm ma.
NHÂN VẬT:
Meredith Cherry, phụ nữ khoảng 35 tuổi. (M)
Ben Palestrina, đàn ông khoảng 2 tuổi. (B)
THỜi ĐIỂM:
Mùa hè 1970.
DÀN DỰNG:
Căn phòng lưới dưới hiên sau nhà trong một đêm
mùa hè ở Armitage, một phố nhỏ trong vùng đồi núi
ở miền đông tiểu bang Ohio. Ben và Meredith ngồi
trên xích đu. Tiếng dế vang vang. Đôm đốm lập
lòe.
MỞ MÀN.
M: Em đến thăm chị?
B: Dĩ nhiên.
M: Chị tưởng em đã quên.
B: Không ai có thể quên chị.
M: Nhiều người rồi.
75
B: Không có em. Chị khỏe không?
M: Hàng đêm chị vẫn ngồi đây, nhìn bầy bướm
đêm bay đậu vào tường lưới. Chúng muốn bay vào
ánh đèn, bị lưới chận lại, Tụi nó không biết, cứ cố
sức chui vào. Như con người. Ngu thật, nhưng
chúng rất kiên trì, (im lặng.) Em trông khỏe mạnh.
Già hơn.
B: Chị trông vẫn đẹp.
M: Chị lớn hơn em 14 tuổi.
B: Chị chẳng thay đổi gì cả.
M: Chị luôn luôn thay đổi, (im lặng). Chị biết một bí
mật.
B: Là chuyện gì?
M: Em hứa đừng nói với cha chị.
B: Được rồi.
M: Chuyện con bướm đêm.
B: Chuyện ra sao?
M: Mỗi con bướm bay đến phòng lưới này mỗi
đêm, khi chị ngồi trên xích đu ngắm đom đóm, mỗi
con bướm thật sự là linh hồn của thứ gì đó.
B: Hồn của thứ gì?
M: Ma. Bướm đêm là ma. Ban đêm chúng đến tìm
người.
B: Tụi nó bị ánh đèn quyến rũ.
M: Nhưng chúng đến tìm mình. Chúng muốn vào
nhà, chờ khi mình ngủ sẽ đậu lên tai,rồi bò vào
trong giấc mơ.
B: Làm sao chị biết?
M: Tại chị lắng nghe.
76
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
B: Nghe chuyện gì?
M: Chị nghe bầy dế. Chúng nó báo tin, cần đề
phòng bướm đêm. Đám đom đóm cũng báo động,
bằng cách nhấp nháy trong bóng tối, cách truyền
tin ban đêm. Bời vì, một khi bướm ma chui vào
đầu, chúng sẽ gặm nhấm bộ não. Trong khi ăn dần
dần, chúng sẽ khám phá những phần trí nhớ đã
chôn vùi, như đào lên những mảnh dĩa vỡ hoặc
xương khô trong vườn, phía sau nhà kho, dưới gốc
cây dương. Bầy bướm đêm chui vào não, cái thứ
bướm ma thường trú trong đầu sẽ đục khoét trí
nhớ như nhà khảo cổ. Có những kỹ niệm mà
chúng ta không muốn đào lên. Những kỹ niệm đau
buồn mà chúng ta đã mất nhiều năm tháng để chôn
sâu, nhưng cũng có những kỹ nệm vui. Đào thứ
này lên cũng cảm thấy đau khổ vì chúng ta không
bao gi có thể trở lại. Bầy bướm trong não sẽ ăn
rách màn che và mở tung trí nhớ khiến chúng ta
trở nên điên rồ.
B: Em không tin chuyện này.
M: Dĩ nhiên, em không tin. Không có ai ngu muội
hơn người điên, (im lặng) Con gái của chị yêu em.
B: Không. Không có đâu.
M: Có. Có thật. Chị có thể nhìn ra. Nó ngưỡng mộ
em lắm.
B: Em quá già cho con chị,
M: Em mới 20 mà.
B: Khi cô bé được 15 tuổi, em đã già.
M: Nó không nghĩ vậy.
B: Con gái chị rất đẹp, thông minh. Bất cứ nơi nào
cô đi, bầy con trai sẽ bu theo. Chị phải lấy chổi chà
xua đuổi chúng nó.
77
M: Chị cũng sợ chuyện này. Họ cũng bu theo chị
như vậy. Em thấy chưa, bầy con trai chưa hẳn là
người.
B: Con gái chị sẽ tốt thôi. Cô sẽ biết tự chăm sóc
mình. Cô khôn ngoan hơn họ.
M: Không ai có thể lo lắng cho chúng. Không ai có
thể lo cho ai, (im lặng) Có lẽ em nên cưới con gái
chị, khi nó lớn lên.
B: Không được đâu.
M: Em vẫn còn cặp cô bạn gái thời đại học?
B: Vâng.
M: Cô ấy có điên không?
B: Chắc không. Có thể có một chút.
M: Em biết không, đó là lỗi của chị.
B: Lỗi gì?
M: Chị là cô gái đầu tiên ngủ với em. Chị đã nhiễm
vào đầu em một ít thế giới đen tối. Từ đó, em sẽ
yêu những cô gái hơi điên điên.
B: Ai mà chẳng điên chút ít.
M: Ben, chị sợ cho con chị.
B: Cô ấy giống chị. Đẹp, thông minh. khôi hài,
mạnh mẽ. độc lập và dứt khoát là độc đáo.
M: Đúng. Những người điên nhất trên thế giới đều
như vậy. Mẹ chị cũng vậy. Bà bỏ đi. Cha chị suy
xụp từ đó. Không cách nào cứu vãn ông được nữa.
B: Cha chị rất thương chị.
M: Rắc rối là vì vậy. Tình thương luôn luôn rắc rối.
Chị giống mẹ. Bây giờ, chị sợ con gái sẽ giống chị.
Hình như nó hoàn toàn bình thường. Rồi một ngày,
78
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
khi nó lớn bằng tuổi em, bướm ma sẽ chui vào sọ
nó. Sẽ bắt đầu ăn não.
B: Chuyện đó sẽ không xảy ra.
M: Đừng nói vi chị là không xảy ra. Em không biết
đâu.
B: Em không tin chuyện đó sẽ xảy ra.
M: Nhưng em không thể biết trước. (im lặng.) Chị
đã về nhà được sáu tháng.
B: Cha chị nói, chị sống rất bình thường.
M: Lúc nào cũng bình thường. Khởi đầu, chị bình
thường. Chị rất giỏi để được trông thấy bình
thường. Tâm trí bình tĩnh. Họ cứ tiếp tục thay đổi
thuốc. Họ chẳng biết họ đang làm gì, nhưng đôi khi
cũng có hiệu quả. Chỉ lúc đó. Nhưng về khuya,
nằm ngủ một mình, trong nhà cha chị. Cảm thấy
bầy bướm ma. Gặm nhấm trong đầu. Đào bới trí
nhớ. Bầy bướm có mục đích. làm cho minh điên
loạn vì tiếc nuối sầu khổ.
B: Tại sao chúng phải làm như vậy?
M: Bởi vì chúng là linh hồn của các sinh vật đã chết
để chúng ta được sống. Chúng đầu thai từ tất cả
những thứ chúng ta ăn, và những ai chúng ta đã
giành mất chỗ của họ trong đời sống này. Khoảng
trống trên mặt đất có giới hạn. Mỗi người đang
sống là thế vào chỗ của người đã chết. Nếu không,
sẽ không đủ thực phẩm. Luật đời là vậy. Đám
bướm đêm có nhiệm vụ nhắc nhớ chuyện này, đổ
tràn lên chúng ta những sầu đau, đưa đẩy chúng ta
đến ý nguyện muốn chết.
B: Chị đừng nghĩ chuyện chết.
M: Chị đang cố gắng. Lần đầu tiên, em rán cứu chị,
gần bị chết đuối. Ngu thật. Nhảy xuống nước cứu
chị mà không biết bơi. Em có biết là không ai có
79
thể cứu ai được? Em dùng cả cuộc đời để rán cứu
người không đáng cứu, người không muốn được
cứu. Rồi em sẽ bị trừng phạt, như chị đã gánh
chịu.
B: Chị chưa bao giờ như vậy. Chị phải sống vì đứa
con gái, nó thương chị lắm.
M: Hứa với chị điều này.
B: Điều gì?
M: Hứa với chị em sẽ không bao giờ ngủ với con
gái của chị.
B: Ô, chị Meredith.
M: Chị nói đứng đắn. Nói thật đó. Hứa với chị. Em
phải hứa với chị, Cho dù con gái chị lớn lên, xinh
đẹp cách mấy, em phải hứa, không bao giờ ngủ
với nó. Cho dù nó năn nỉ. Nó đã yêu em. Chị thấy
được mà.
B: Em hứa. Sẽ không bao giờ ngủ với con gái chị.
M: Nhưng luôn luôn canh giữ nó.
B: Em sẽ theo dõi.
M: Em không thể cứu nó, nhưng có thể canh
phòng, và có thể thông cảm khi bầy bướm đêm bắt
đầu ăn não của nó.
B: Cô ta còn có chị chăm sóc mà.
M: Chị không biết nếu chị còn lo nổi hay không.
Bầy bướm nói, chẳng bao lâu nữa chị sẽ trở vào lại
nơi đó. Lần này có thể chị sẽ không bao giờ trở ra.
Chị cần em thế chỗ chị. Chăm sóc cho con gái và
không được chạm vào thân thể nó, cho dù em
thèm muốn đến mức nào, vì em sẽ muốn, vì nó sẽ
làm em nhớ đến chị.
B: Meredith, cô ta sẽ tốt đẹp và chị cũng vậy.
80
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
M: Thề đi. Thề với chị, em sẽ luôn luôn lo lắng cho
nó và không ngủ với nó. Vì tình yêu là nền tảng cho
tất cả buồn khổ. Bầy bướm nói như vậy. Chúng thì
thầm suốt đêm bên tai điều này. Em phải hứa, em
chịu hứa không?
B: Em hứa.
M: Em có yêu cô bạn gái từ thời đại học không?
B: Có chứ.
M: Cô ta có yêu em không?
B: Em nghĩ là có,
M: Thật đáng buồn.
B: Đôi khi đời là vậy.
M: Không có gì kết thúc tốt đẹp cả.
B: Có thể...
M: Bầy bướm nói với chị. Tình yêu là một cái gì sẽ
giết mình. Mỗi đêm, bầy bướm đến nhắc nhở rằng
chúng ta nợ người nào đó một cái chết, (im lặng.)
Có thể tốt hơn cho con gái nếu chị chết.
B: Chẳng có gì tốt hơn cho cô ấy nếu chị chết.
M: Em không nghĩ như vậy sao?
B: Cô ta cần chị.
M: Nhưng nó không tin chị không bị điên.
B: Cô ta tin chị thương yêu cô. Điều này có thật và
cô cần chị. Bỏ đi, chị đừng nghĩ đến chuyện chết.
M: Chị sẽ cố, (im lặng). Chị lo rằng sau khi chết sẽ
không được giải thoát. Sẽ trở về như một con
bướm ma. Sẽ bò vào giường ngủ. Sẽ đào xới trí
nhớ, như những mảnh vỡ của dĩa sành, (im lặng.)
Em còn yêu chị không?
B: Em yêu chị nhiều lắm.
81
M: Cho dù như thế nào?
B: Cho dù sẽ ra sao.
M: Phải cận thận người nào em yêu.
B: Yêu người nào không phải do mình chọn.
M: Đừng để chị bay vào, được không? Khi ban
đêm, chị sẽ đến phòng lưới của em, bay đậu bên
ngoài, đừng để chị vào. Đừng bao giờ để chị vào.
(Ben chồm tới, cầm tay Meredith. Im lặng. Cả hai
gần như bất động, cùng nhìn ra hướng đôm đốm
bay. Đèn mờ dần rồi tối hẳn.)
HẠ MÀN.
82
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Giới Thiệu
Robert Schumann (1810-1856)
Nhạc sư người Đức, chuyên về dương cầm và phê
bình gia về nhạc trong thế kỷ 19. Được tôn vinh
như một nhà sáng tác lớn lao của thời đại Lãng
Mạn.
Đang có triển vọng trở thành người chơi dương
cầm hay nhất ở Âu Châu, một tai nạn đã gây
thương tích cho tay ông, giấc mộng đó phai mờ.
Nhờ vậy, ông tập trung vào sáng tác. Lara Weck,
vợ ông, là một tay chơi dương cầm nổi tiếng.
Vào gần cuối đời ông rơi vào tình trạng khủng
hoảng tâm thần, tự tử hụt và được đưa vào nhà
thương tâm trí điều trị. Qua đời vì bệnh sưng phổi
lúc 46 tuổi.
83
84
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
85
86
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
87
88
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
89
90
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
91
Giới Thiệu Sách: Tiếp theo, kỳ 4
Brief Answers To The Big Questions
Stephen Hawking. 2018. 220 trang.
Câu Trả Lời Tóm Lược Cho Những Câu Hỏi Lớn
Bài dịch sẽ lược bỏ bớt những đoạn trình bày kỹ
thuật phức tạp, mà một người bình thường không
cần phải theo dõi.
92
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Có Thượng Đế Hay Không?
Stephen Hawking
Ngu Yên dịch
(Tiếp theo)
Ghi: Chữ nhỏ trong ngoặc là của người dịch bổ túc.
Khoa học càng ngày càng gia tăng việc trả lới
những câu hỏi nằm trong phạm vi tôn giáo. Khởi
đầu, tôn giáo đã nỗ lực giải đáp những thắc mắc
cho nhân loại: Tại sao chúng ta có mặt ở đây? Con
người từ đâu đến? Từ xa xưa đến nay, câu trả lời
hầu như giống nhau: Thần thánh đã tạo ra vạn vật.
Trần gian là một nơi đáng sợ, vì vậy, ngay cả
những người can đảm cứng rắn như dân Vikings
cũng tin vào quyền lực của siêu nhiên để giải thích
những hiện tượng thiên nhiên như sấm sét, bão tố,
nhật thực. Ngày nay, khoa học đưa ra những câu
trả lời chính chắn hơn, nhất quán hơn, nhưng
người ta vẫn phải bám vào tôn giáo vì nó mang lại
sự bình yên. Họ không tin hoặc không hiểu rõ khoa
học.
Vài năm trước đây, tạp chí Time đăng một tựa đề
lớn trên trang bìa: “Hawking: Chúa không tạo ra vũ
trụ,” Bài báo được minh họa, vẽ hình Chúa thể hiện
như bức tranh nổi tiếng của Michelangelo, trông
giống như sấm sét. Họ in hình của tôi, nhìn rất tự
mãn. Lảm như chúng tôi đang đấu tay đôi. Thật sự,
tôi không có ác cảm với Chúa. Cũng không muốn
gây ấn tượng việc nghiên cứu của tôi, dùng để
chứng minh, bác bỏ sự hiện hữu của Thượng Đế.
Công việc của tôi là tìm kiếm một cấu trúc hợp lý
để giải thích vũ trụ chung quanh con người.
93
Nhiều thế kỷ qua, người ta tin rằng những người
tàn tật như tôi đang sống dưới lời nguyền do
Thượng Đế trừng phạt. Thế thì, tôi có thể làm cho
ai đó phiền hà, nhưng tôi thích giải nghĩa mọi thứ
theo một cách khác, theo những định luật tự nhiên.
Nếu bạn đọc tin tưởng vào khoa học như tôi, sẽ
chứng nghiệm, có một số quy luật luôn luôn hiện
diện và được tuân thủ. (Ví dụ như nước bốc hơi thành
mây, mây gặp lạnh thành mưa, mưa xuống đất ra sông
hồ ao biển rồi bốc hơi …) Nếu muốn, có thể lý luận
rằng những quy luật là sản phẩm của Thượng Đế,
nhưng quan điểm này nghiêng về định nghĩa quyền
năng của Chúa hơn là bằng chứng về sự tồn tại
của Ngài. Khoảng năm 300 trước Công nguyên,
Một triết gia tên Aristarchus bị mê hoặc bởi hiện
tượng nhật thức, đặc biệt là nguyệt thực. Ông đã
đủ can đảm để đặt câu hỏi, những sự kiện này có
phải do thần thánh tạo ra? Ông trở thành một nhà
khoa học tiền phong. Aristarchus nghiên cứu kỹ về
bầu trời và đi đến một kết luận táo bạo: Nhật thực
là bóng của trái đất đi qua mặt trăng, không phải là
việc làm của quyền lực siêu nhiên. Được giải thoát
nhờ khám phá này, ông có thể tìm ra những gì
thực sự xảy ra trên đầu ông, và vẽ các biểu đồ cho
thấy mối liên hệ thực tế giữa mặt trời. trái đất và
mặt trăng. Từ đó, ông đã đưa đến những kết luận
xuất sắc. Cho rằng, trái đất không phải là trung tâm
vũ trụ như mọi người đã nghĩ, thay vào đó, nó xoay
chung quanh mặt trời. Hiểu được sự sắp xếp này,
sẽ giải thích tất cả các hiện tượng nhật thực nguyệt
thực. Khi mặt trăng phủ bóng xuống trái đất, đó là
nhật thực. Khi trái đất che khuất mặt trăng, đó là
nguyệt thực. Rồi Aristarchus còn tiến xa hơn. Cho
rằng, các ngôi sao không phải chỉ là tinh tú trên nền
trời, như các người cùng thời đã tin tưởng. Các
ngôi sao là những mặt trời khác, giống như mặt trời
của chúng ta, nhưng ở rất xa. Thật là một nhận
94
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
thức đáng kinh ngạc. Vũ trụ là một bộ máy được
điều hành bởi những nguyên tắc và quy luật.
Những luật mà tâm trí con người có thể hiểu được.
Tôi tin rằng sự phát hiện những quy luật này là
những thành tựu vĩ đại của loài người, vì chính
những định luật tự nhiên - như hiện nay, chúng ta
đang gọi tên – đã tự nói lên, liệu chúng ta có cần
những vị thần thánh để giải thích về vũ trụ hay
không? Những định luật tự nhiên mô tả đường lối
sinh hoạt thật sự của mọi thứ trong quá khứ, hiện
tại, và tương lai. Đối với các tay quần vợt chuyên
nghiệp, trái banh luôn luôn được đánh đi chính xác
vào những nơi họ đã tính trước. Hành động này gói
ghém một số quy luật. Chúng chi phối mọi thứ
đang diễn ra, từ năng lượng điều khiển cú đánh bởi
cơ bắp của cầu thủ cho đến tốc độ trên sân cỏ mọc
dưới chân. Nhưng điều quan trọng thực sự là các
quy luật vật lý mang tính phổ biến và bất biến.
Chúng không chỉ áp dụng cho đường banh quần
vợt, mà cho cả sự chuyển động của trái đất và mọi
tinh tú trong vũ trụ. Không giống như luật pháp của
con người, luật tự nhiên không thể bị phá vỡ, đó là
lý do tại sao chúng có uy lực chứng minh khi nhìn
từ quan điểm của tôn giáo dù phải tranh luận.
Nếu bạn đọc có thể chấp nhận như tôi, những định
luật tự nhiên là cố định, sẽ không mất nhiều thời
giờ để dẫn đến câu hỏi: Vai trò của Chúa làm gì ở
đây? Sự mâu thuẫn lớn lao giữa khoa học và tôn
giáo nằm ở chỗ này, mặc dù quan điểm của tôi trở
thành tựa đề lớn, gây xôn xao trong dư luận, thật
ra, sự mâu thuẫn đã có từ ngàn xưa.
Người ta có thể định nghĩa Thượng Đế là hóa thân
của các định luật tự nhiên. Tuy thế, hầu hết mọi
người không nghĩ Thượng Đế như vậy. Họ quan
niệm, siêu nhiên cũng giống như con người, phải
95
có những mối liên hệ cá nhân. (Tôn giáo là hệ thống
liên hệ cá nhân với siêu hình.) Khi nhìn lên vũ trụ vô
tận, và sự sống tình cờ, vô nghĩa của con người
trong bao la đó, dường như là chuyện đáng nghi
ngờ nhất.
Tôi dùng từ ngữ “God” (Chúa, Thượng Đế) theo
nghĩa “không nhân tính”, như Einstein đã sử dụng,
cho các định luật tự nhiên. Như vậy, hiểu được tâm
trí Thượng Đế là hiểu biết các định luật tự nhiên.
Tôi dự đoán, con người sẽ biết tâm trí của Thượng
Đế vào cuối thế kỷ này.
Một lãnh vực còn lại mà tôn giáo dùng để khẳng
định Thượng Đế là nguồn gốc tạo ra vũ trụ, (Đó là
vũ trụ ra đời nhu thế nào,) nhưng khoa học cũng
đang tiến đến và sẽ sớm đưa ra câu trả lời dứt
khoát về sự khai sinh ra vũ trụ. Tôi ấn hành một
cuốn sách đặt nghi vấn, liệu Chúa có tạo ra vũ trụ
hay không? Đã gây ra nhiều chấn động. Một độc
giả bực bội đã nói rằng, một nhà khoa học không
nên có ý kiến gì về tôn giáo. Tôi không có ý định
thuyết phục ai phải tin điều gì. Đối với tôi, đặt câu
hỏi về Chúa có hiện hữu hay không, là câu hỏi
thuần về khoa học. Sau cùng, khó mà mà nghĩ một
điều gì bí ẩn, căn bản, quan trọng hơn là “Ai đã
tạo ra và điều khiển vũ trụ.”
Tôi nghĩ vũ trụ được tạo ra một cách tự nhiên từ hư
không, theo quy luật khoa học. (Quan điểm này giống
căn bản của thuyết khai sinh trời đất của Trung Hoa: Hư
vô sinh thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi
sinh tứ tượng ….) Giả định căn bản của khoa học là
thuyết tất định khoa học (Determinism). Nghĩa là,
các quy luật khoa học xác định sự tiến hóa của vũ
trụ, dựa trên trạng thái của nó trong một thời điểm.
(Trạng thái ở đây có thể hiểu là hoàn cảnh, bao gồm
những gì xảy ra, trong một thời thời gian nhất định được
xác định.) Những quy luật này có thể hoặc không
96
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
được Chúa ban hành, nhưng Chúa không thể can
thiệp để thay đổi hoặc hủy bỏ những quy luật tự
nhiên, nếu không, chúng không phải là quy luật.
Điều này giải thích, Chúa chỉ có quyền tự do lựa
chọn trạng thái, hình thức khai sinh của vũ trụ. Sau
đó, vũ trụ sẽ do các quy luật tự nhiên điều hành.
Ngay cả khái niệm khai sinh này dường như cũng
có những quy luật. Nếu vậy, Chúa không có tự do
làm gì cả.
Bất chấp sự phức tạp và đa dạng của vũ trụ, hóa ra
để tạo nên một vũ trụ, chỉ cần ba nguyên liệu. Hãy
tưởng tượng rằng chung ta có thể liệt kê chúng
trong cuốn sách dạy gia chánh, nấu món vũ trụ.
Như vậy ba nguyên liệu dùng để nấu là gì?
•
•
•
Vật chất: Bất kỳ thứ gì có khối lượng. Vật
chất ở chung quanh chúng ta, trong lòng
đất dưới chân và ngoài không gian. Bụi, đá,
băng, chất lỏng… Những đám mây mênh
mông, những ngân hà xoắn ốc khổng lồ đầy
tinh tú, mỗi ngân hà chứa hàng tỷ mặt trời,
trải dài những khoảng cách đáng kinh ngạc.
Những thứ đó đều thuộc về vật chất.
Năng lượng: Cho dù một ai chưa bao giờ
nghĩ về năng lượng, nhưng tất cả chúng ta
đều biết nó. Một thứ chúng ta nhìn thấy,
gặp gỡ hàng ngày. Nhìn lên mặt trời, sẽ
cảm thấy chất ấm hoặc nóng chạm vào
mặt: Đó là năng lượng đó được tạo ra bởi
một hành tinh cách chúng ta 93 triệu dặm
(mặt trời). Năng lượng tràn ngập khắp nơi
trong vũ trụ, tự thúc đẩy trong tiến trình giữ
bản chất năng động, không ngừng thay đổi
vị trí.
Có vật chất, có năng lượng, nguyên liệu thứ
ba là Không gian: Khoảng trống bao la.
Chúng ta có thể mô tả vũ trụ bằng cụm chữ:
97
tuyệt vời, đẹp đễ, bạo lực… nhưng có một
cụm từ không thể dùng cho nó, đó là chật
hẹp. Bất cứ lúc nào, nhìn lên vũ trụ đều
thấy nhiều khoảng trống và rất nhiều không
gian, trải dài ra mọi hướng. Sự rộng lớn làm
cho đầu óc chúng ta xây xẩm.
Như vậy, vật chất, năng lượng và không gian, từ
đâu mà có? Nhân loại không có câu trả lời cho đến
thế kỷ 20.
Câu trả lời đến từ sự hiểu biết của một người đàn
ông, có lẽ là nhà khoa học lừng lẫy nhất trong cõi
sống, tên: Albert Einstein. Đáng buồn vì tôi chưa
bao giờ được gặp ông. Einstein đã nhận ra một
điều khá lạ lùng: Hai trong ba thành phần chủ yếu
tạo ra vũ trụ, đó là vật chất và năng lượng có cơ
bản là một thứ giống nhau, hai mặt của cùng một
đồng tiền. Phương trình nổi tiếng của ông E=mc2,
đơn giản có nghĩa: Khối lượng (vật chất) có thể
xem như một dạng năng lượng và ngược lại. Như
vậy, thay vì phải có ba thành phần, chúng ta có thể
xác nhận xây dựng vũ trụ chỉ còn hai: năng lượng
và không gian. Câu hỏi tiếp theo: Năng lượng và
không gian đến từ đâu? Sau nhiều thập niên
nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm ra câu trả lời:
Không gian và năng lượng được phát sinh một
cách ngẫu nhiên và tự nhiên trong một sự kiện mà
ngày nay chúng ta gọi là “Vụ nổ lớn” (Big Bang.
Được giải thích chi tiết trong tác phẩm The Large Scale
Structure of Space-Time, 1973, Hoặc giải thích sơ lược
dễ hiểu hơn trong A Brief History of Time. 1988 Stephen
Hawking.)
Vào lúc xảy ra vụ nổ lớn, cả một vũ trụ đã khai
sinh, cùng với không gian. Tất cả đều phồng lên.
(nở ra) như quả bong bóng bay được thổi lên. Như
vậy, tất cả năng lượng và không gian giải thích như
thế nào? Làm sao cả vũ trụ có thể tràn đầy năng
98
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
lượng? Sự rộng lớn kỳ diệu của không gian và tất
cả những gì chứa đựng trong đó, không lẽ, chỉ đơn
giản xuất hiện từ hư không?
Đối với một số người, đây là lúc Chúa trở lại với
quyền phép. Chính là Chúa đã sáng tạo năng
lượng và không gian. Vụ nổ lớn, Big Bang, là thời
điểm Chúa dựng nên trời đất. Nhưng khoa học giải
thích một cách khác. Đứng trước những rắc rối mà
tôi tự rước vào thân, tôi nghĩ, nhờ nói ra như vậy,
người ta có thể hiểu thêm nhiều điều về những
hiện tượng đã gây khủng khiếp cho dân Viking.
Thậm chí, chúng ta có thể vượt qua cặp “hai mặt
một đồng tiền” kỳ lạ: Đó là Vật chất và Năng lượng
do Einstein đã khám phá. Có thể sử dụng các quy
luật tự nhiên để giải quyết nguồn gốc của vũ trụ và
tìm hiểu, nếu sự hiện hữu của Chúa là cách duy
nhất để giải thích vấn đề này.
Khi tôi lớn lên, sau thế chiến thứ Hai, Anh quốc
sống trong tình trạng khắc khổ. Người ta nói với
chúng tôi, không bao giờ nhận một cái gì đó mà
hoàn toàn không trả lại một thứ gì khác. (Không có
gì hoàn toàn không tốn kém) Nhưng bây giờ, sau một
đời làm việc, tôi nghĩ chúng ta đã thật sự có một vũ
trụ miễn phí.
Bí ẩn lớn nhất ở tâm điểm của Vụ nổ lớn là làm
sao để giải thích toàn bộ vũ trụ diệu kỳ mênh mông
với không gian và năng lượng có thể cụ thể hóa,
vật chất hóa tử chỗ không có gì. Bí mật này nằm
trong một thực tế kỳ lạ nhất về vũ trụ. Các định luật
vật lý đòi hỏi sự tồn tại của mọi thứ là “năng lượng
âm” (negative energy.)
Để giúp bạn đọc hiểu được khái niệm lạ lùng
nhưng quan yếu này, hãy cho tôi sử dụng một
phép loại suy đơn giản: Thử tưởng tượng có người
muốn xây ngọn đồi trên mảnh đất bằng phẳng.
99
Ngọn đồi biểu tượng cho vũ trụ. Để đắp đất lên
ngọn đồi, anh phải đào cái hố để lấy đất. Như vậy,
anh ta vừa tạo ra ngọn đồi, cùng lúc tạo ra hố sâu.
Cái hố là phiên bản âm của ngọn đồi, vì tát cả
những gì lấy từ hố đưa lên trở thành chất liệu xây
cất đồi cao. Đó là sự cân bằng hoàn hảo. Đây là
nguyên tắc đằng sau những gì xảy ra vào thời kỳ
bắt đầu của vũ trụ. (Từ ẩn dụ tạo ra ngọn đồi, chúng ta
đi đến thời điểm khai sinh của vũ trụ.)
Khi Vụ nổ lớn tạo ra số năng lượng khổng lồ
dương tính, đồng thời nó tạo ra khối năng lượng
âm tính bằng khối dương tính. Theo sự kiện này,
số dương và số âm cộng lại sẽ bằng 0 (zero). Đó là
một trong các định luật tự nhiên. Như vậy, số năng
lượng âm đã đi đâu? Nó ở trong nguyên liệu thứ ba
đã liệt kê trong sách dạy nấu ăn: Không gian,
năng lượng âm nằm trong không gian. Điều này
mới nghe có vẻ kỳ quặc, nhưng theo quy luật tự
nhiên liên quan đến hấp lực (gravity) và chuyển
động (motion) – hai định luật thuộc hạng lâu đời
nhất trong khoa học – thì chính không gian là một
nhà kho vô tận chứa khối năng lượng âm khổng lồ.
Đủ để bảo đảm khi tất cả cộng lại sẽ bằng số 0 (số
không.)
Tôi thừa nhận, trừ khi toán học là sở thích của
chúng ta, nếu không, sự thật là chúng ta khó nắm
bắt những giải thích. Lưới trời vô tận của hàng tỷ tỷ
thiên hà, mỗi thiên hà kéo thiên hà khác bởi hấp
lực, sinh hoạt như một thiết bị lưu trữ khổng lồ. Vũ
trụ như một cục pin vĩ đại tích trữ năng lượng âm.
Về bên dương giống như ngọn đồi, bao gồm khối
lượng và năng lượng mà chúng ta thấy ngày nay.
Hố sâu tương ứng với ngọn đồi, như vậy, bên âm
của vạn vật, tràn ngập khắp không gian.
100
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Điều này có ý nghĩa gì trong việc tìm kiếm sự hiện
hữu của Thượng Đế? Có nghĩa: nếu vũ trụ cộng lại
là số không, (năng lượng dương cộng năng lượng âm
bằng zero,) không có gì, thì Chúa không cần tạo ra
nó. Vũ trụ ví như một bữa ăn miễn phí.
Nếu đã biết số dương cộng số âm bằng không có
gì, điều còn lại bây giờ, là tìm ra - hoặc tôi dám hỏi
– ai là kẻ tiên chinh đã kích hoạt để bắt đầu toàn bộ
quá trình này? Điều gì xuất hiện đã gây ra sự tự
phát của vũ trụ? Mới nghe qua, dường như khó
hiểu. Xét cho cùng, trong cuộc sống hàng ngày,
mọi thứ không phải chỉ trở thành hiện thực, cụ thê
hóa từ không không. Không thể chỉ búng ngón tay
và gọi một tiếng, tức thì ly cà phê chạy đến. Chúng
ta phải tạo ra từ hạt cà phê, pha nước sôi, trộn ít
đường và sữa. Nhưng nếu chúng ta đi sâu vào ly
cà phê, xuyên qua các hạt sữa, đến các nguyên tử.
Chúng ta bước vào một thế giới nơi có thể tạo ra
một thứ gì từ không có gì. Tối thiểu trong một thời
gian ngắn. Bởi vì, ở mức độ này, những hạt như
proton hoạt động theo các quy luật tự nhiên mà
chúng ta gọi là cơ học lượng tử (quantum
mechanics). Chúng có thể xuất hiện tình cờ, hiện
diện một thời gian rồi biến mất, để xuất hiện trở lại
ở một nơi khác.
Chúng ta biết bản thân của vũ trụ trước kia đã từng
rất nhỏ, có thể nhỏ hơn hạt proton. Như vậy, nếu
bây giờ vũ trụ lớn mênh mông chắc phải có điều gì
kỳ lạ đã xảy ra. Nghĩa là, bản thân của vũ trụ sau
khi khai sinh, bao la và phức tạp một cách kỳ dị, có
thể chỉ đơn thuần đột nhiên nổ ra và tồn tại mà
không vi phạm các định luật tự nhiên. Từ thời điểm
đó, một khối năng lượng lớn đã được giải thoát khi
không gian tự mở rộng - một nơi lưu trữ tất cả các
năng lượng âm cần thiết để cân bằng với năng
lượng dương. Nhưng tất nhiên câu hỏi quan trọng
101
được đặt ra một lần nữa: Có phải Chúa đã tạo ra
định luật lượng tử cho phép Vụ nổ lớn thành hình?
Tóm lại, có cần Chúa sắp đặt luật lượng tử để kích
hoạt vụ nổ khai sinh vũ trụ? Tôi không có ý xúc
phạm đến đức tin của bất kỳ ai, nhưng tôi nghĩ,
khoa học đưa ra lời giải thích thực tế, thuyết phục
hơn chuyện có Chúa sáng tạo.
Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy tất cả mọi chuyện
xảy ra đều phải liên quan đến điều gì xảy ra trước
đó. Bằng kinh nghiệm này, chúng ta dễ dàng nghĩ
rằng có một thứ gì đó, hoặc là Chúa, đã khiến vũ
trụ thành hình. Nhưng khi nói về toàn thể vũ trụ, ý
nghĩ đó không nhất thiết đúng. Cho phép tôi giải
thích: Hãy tưởng tượng dòng sông, chảy xuống
sườn núi. Điều gì tạo ra dòng sông? Câu trả lời
đúng sẽ là mặt trời chiếu xuống đại dương, nước
bốc hơi lên trời, tạo thành mây, mây gặp lạnh
thành mưa. Nước xuống đất là nguồn sông. Nước
xuống sông thành dòng chảy. Như vậy, điều gì
khiến mặt trời tỏa sáng và nóng? Nếu nhìn vào bên
trong nắng, sẽ thấy một quá trình gọi là “nhiệt
hạch,” trong đó các nguyên tử hydro gặp nhau tạo
thành Heli, giải tỏa một số năng lượng lớn. Vậy,
Hedro đến từ đâu? Câu trả lời: Từ Vụ nổ lớn.
Nhưng đây là một điểm nhỏ cần quan tâm: Bản
thân của các luật tự nhiên cho biết, vũ trụ không chỉ
tự tồn tại mà còn không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào,
như một proton, không đòi hỏi gì về năng lượng.
Tuy nhiên, cũng có thể không có lý do nào tạo Vụ
nổ lớn.
Giải thích theo lý thuyết của Einstein và sự hiểu
biết của ông về không gian và thời gian trong vũ
trụ, trên căn bản, cả hai gắn liền vào nhau. (Không
thể tách rời không gian và thời gian. Ở đâu có không
gian là có thời gian, hoặc ngược lại.) Vì vậy, từ khi vụ
102
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
nổ lớn (Big Bang) bắt đầu, một điều kỳ diệu đã xảy
ra, đó là sự xuất hiện của thời gian.
Để tìm hiểu ý tưởng gây bối rối này, hãy xem xét
một lỗ đen lơ lửng trong không gian. Một lỗ đen
điển hình là một ngôi sao có khối lượng (vật chất)
lớn đến mức, tự nó làm cho nó sụp đổ. Nó lớn đến
độ không có ánh sáng nào có thể thoát ra khỏi hấp
lực của chính nó, Đó là lý do tại sao nó hoàn toàn
đen tối. Hấp lực của nó rất mạnh, làm cong và biến
dạng không chỉ ánh sáng mà còn cả thời gian. (Lỗ
đen tự hút ánh sáng và thời gian vào trung tâm của nó.).
Để giải thích thêm, hãy tưởng tượng chiếc đồng hồ
đang bị hấp lực của lỗ đen hút vào. Khi đồng hồ
tiến dần đến gần lỗ đen, kim đồng hồ sẽ chậm lại vì
sức hút. Bây giờ, hãy tưởng tượng chiếc đồng hồ
đi vào lỗ đen - giả sử nó có thể chịu đựng được
hấp lực lớn – nó sẽ thực sự dừng lại. (kim đồng hồ
không chạy.) Nó dừng lại không phải vì hư hỏng, mà
vì bên trong lỗ đen không có thời gian. Đó là chính
xác những gì đã xảy ra khi vũ trụ bắt đầu.
(Theo tôi, người dịch, đoạn giải thích về sự bắt đầu của
thời gian này không cho người đọc một khái niệm sáng
tỏ. Ví dụ về chiếc đồng hồ chỉ nói lên sự vắng mặt của
thời gian trong lỗ đen. Sự liên hệ giữa không có thời
gian trong lỗ đen và sự khai sinh của thời gian như thế
nào, không được rõ ràng. Các bạn đọc nên tìm hiểu về
thời gian vũ trụ trong tác phẩm A Brief History of Time
của Stephen Hawking, Sự giải thích sẽ mạch lạc và
thuyết phục hơn.)
Trong một trăm năm qua, chúng ta đã đạt được
những bước tiến ngoạn mục trong sự hiểu biết về
vũ trụ. Hiểu được một số định luật điều hành tất cả
những gì xảy ra trong mọi trường hợp. Ngoại trừ
một số trường hợp quá đặc biệt như: nguồn gốc vũ
trụ và lỗ đen. Tôi tin rằng vai trò của thời gian lúc
vũ trụ khai sinh là chìa khóa cuối cùng để loại bỏ
103
sự cần thiết của đấng tạo hóa. Cùng một lúc, sẽ
biểu lộ cách vũ trụ tự tạo ra chính nó.
Nếu chúng ta du hành ngược thời gian về lại thời
điểm xảy ra Vụ nổ lớn. Trên đường đi, sẽ thấy vũ
trụ nhỏ dần, càng ngày càng rút lại, cho đến một
lúc, toàn bộ vũ trụ chỉ là một không gian co cụm.
Sau cùng là một lỗ đen rất nhỏ, đông đặc, nén
chặt. Nó giống như những lỗ đen ngày nay, trôi nổi
trong không gian. Các quy luật tự nhiên điều hành
một cách nào đó khá kỳ diệu. Chúng cho chúng ta
biết, ở đây, lúc đó, thời gian cũng phải ngừng lại.
(Trước khi nổ lớn, vũ trụ là một khối vật chất nén đặc, có
trọng lượng nặng khủng khiếp và không có thời gian.
Thời gian chỉ xuất hiện, bắt đầu ngay lúc nổ lớn.)
Chúng ta không thể đi đến trước lúc Nổ Lớn (Big
Bang) vì trước đó không có thời gian. Rốt cuộc,
chúng ta đã tìm ra một thứ gì không có nguyên
nhân, bởi vì không có thời gian để nguyên nhân
xuất hiện. (Nói một cách khác, không có thời gian thì
không thể có không gian, thì không có gì cả.) Đối với
tôi, điều này có khả năng chứng tỏ không có đấng
tạo hóa. Trước Vụ nổ lớn, không có thời gian,
không có gì, không có điều kiện cho đấng tạo hóa
hiện hữu.
Người ta muốn nghe những câu trả lời cho những
câu hỏi lớn, ví dụ như, tại sao con người sống ở
đây? Họ biết, không thể mong đợi câu trả lời một
cách dễ dàng, vì vậy họ đã chuẩn bị tâm lý để đón
nhận những giây phút gay go. Khi họ hỏi tôi, liệu có
Chúa tạo ra vũ trụ hay không. Tôi nói, bản chất của
câu hỏi không có ý nghĩa. Vì trước Vụ nổ lớn, thời
gian chưa hiện diện. Không có thời gian để Chúa
tạo ra vũ trụ. Tương tựa như câu hỏi đường đi đến
biên giới của trái đất. Trái đất hình cầu không có
biên giới, vì vậy tìm kiếm câu trả lời cho biên giới
của trái đất ở đâu là việc không có ý nghĩa.
104
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
Tôi có đức tin hay không? Mỗi người chúng ta đều
có tự do tin vào những gì mình muốn. Theo quan
điểm của tôi, lời giải thích ngắn gọn nhất là không
có Chúa. Không ai tạo ra vũ trụ và không ai chỉ đạo
số phận của con người. Điều này dẫn tôi đến một
nhận thức cần thiết khác: Có lẽ không có thiên
đàng, cũng không có thế giới bên kia. Tôi nghĩ,
niềm tin vào thế giới bên kia chỉ là mơ tưởng.
Không có bằng chứng nào đáng tin cậy về những
điều này và chúng sẽ phai mờ khi đối diện với
những gì chúng ta hiểu biết về khoa học. Tôi nghĩ,
khi chết chúng ta sẽ trở về cát bụi. Nhưng có một ý
nghĩa nào đó khi chúng ta đang sống, tạo ra ảnh
hưởng, và truyền lại phẩm chất “gene” cho con cái
đời sau. Chúng ta chỉ có một đời này để hưởng thụ
và cảm tạ một cơ cấu cao kỳ lớn lao của vũ trụ. Và
tôi vô cùng biết ơn điều này.
Stephen Hawking
Ngu Yên dịch
105
106
Tạp Chí Đọc và Viết. Bất Định Kỳ
MỤC LỤC SỐ 6
1- Fadhil Assultani. Thơ Iraq. Dịch.
2- Cây Chổi Của Mẹ Tôi. Phiếm Luận.
3- Diễn Đạt Ca Khúc Là Gì? Royal Staton. Nhạc
4- Lầu Kính. Reinaldo Arenas. Truyện Cuba. Dịch.
5- Lửa Trại Trên Không Gian. Thơ.
6- Sữa Nhân Ái. J. Thalia Cunningham. Kịch dịch.
7- Câu Chuyện Của Người Thua Kiện.
8- Giới thiệu sách:
Brief Answers To The Big Questions,
Stephen Hawking.
Ngu Yên dịch từng kỳ
Vạn Vật Bắt Đầu Như Thế Nào?
107