Bước tới nội dung

Stray Kids

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Stray Kids
스트레이 키즈
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánSeoul,  Hàn Quốc
Thể loại
Năm hoạt động2017-nay
Công ty quản lýJYP Entertainment
Hãng đĩa
Hợp tác với
Thành viên
Websitestraykids.jype.com
Thông tin YouTube
Kênh
Năm hoạt động2017-nay
Thể loạiÂm nhạc
Lượt đăng ký16,1 triệu (tính đến tháng 4/2024)
100.000 lượt đăng ký 2017
1.000.000 lượt đăng ký 2018
10.000.000 lượt đăng ký 2022

Stray Kids (tiếng Hàn: 스트레이 키즈; RR: Seuteurei Kijeu; viết tắt: SKZ) là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc được thành lập bởi JYP Entertainment thông qua chương trình truyền hình thực tế cùng tên. Nhóm hiện gồm 8 thành viên Bang Chan, Lee Know, Changbin, Hyunjin, HAN, Felix, SeungminI.N.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi ra mắt: Thành lập và chương trình thực tế Stray Kids

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 8 năm 2017, JYP Entertainment chính thức công bố sẽ thông qua một chương trình truyền hình thực tế để ra mắt nhóm nhạc nam mới. Ngày 21 tháng 9, công ty đã tiết lộ tên của chương trình - Stray Kids - cùng với logo và kênh truyền thông xã hội.[1][2] Vài ngày sau, một đoạn video âm nhạc mang tên "Hellevator" được phát hành[3][4]. Các hình ảnh teaser của 9 thành viên cũng được công bố sau đó.[5] Chương trình bắt đầu phát sóng vào ngày 17 tháng 10 năm 2017 và kết thúc với 9 thành viên đều được ra mắt.[6]

Ngày 8 tháng 1, Stray Kids đã chính thức phát hành đĩa mở rộng Mixtape bao gồm 7 bài hát mà nhóm đã biểu diễn trong chương trình và được đồng sáng tác bởi các thành viên.[7] MV của ca khúc "Grrr Law of Total Madness" cũng được phát hành cùng ngày, trong khi video thực hiện vũ đạo cho ca khúc "Young Wings" được phát hành trong một tuần sau đó.[8][9][10][11] Mixtape đã giành được vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng album của GaonBillboard.[12][13]

2018: Ra mắt với I Am Not, comeback với I Am WhoI Am You

[sửa | sửa mã nguồn]
Stray Kids giao lưu cùng fan năm 2018

Ngày 5 tháng 3 năm 2018, JYP Entertainment công bố showcase ra mắt của nhóm có tựa đề Stray Kids Unveil: Op. 01: I Am Not, diễn ra tại sân vận động Jang Chung vào ngày 25 tháng 3 với 4500 chỗ ngồi.[14] Stray Kids sẽ phát hành mini-album I Am Not vào ngày 26 với ca khúc chủ đề "District 9"[15], trong khi video âm nhạc "Grow Up" và video thực hiện vũ đạo cho "Mirror" đã được phát hành vào ngày 31 tháng 3 và ngày 23 tháng 4.[16][17][18][19] I Am Not đứng vị trí thứ tư trên Bảng xếp hạng album của Gaon và đã bán được hơn 54.000 bản vào tháng 3.[20][21]

Ngày 14 tháng 4, Stray Kids đã biểu diễn tại KCON Japan 2018, buổi biễu diễn tại nước ngoài đầu tiên của nhóm.[22][23]

Vào ngày 12 tháng 7, JYP đã công bố showcase thứ hai của nhóm mang tên Stray Kids Unveil (Op. 02: I Am Who), được tổ chức vào ngày 5 tháng 8 tại Cung diện Hòa bình của Đại học Kyung Hee. EP thứ hai của nhóm có tên I Am Who cùng với ca khúc chủ đề "My Pace"[24], được phát hành vào ngày hôm sau.[25][26][27]

Vào ngày 4 tháng 10, JYP Entertainment đã công bố showcase thứ ba của nhóm mang tên Stray Kids Unveil (Op. 03: I Am You), được tổ chức vào ngày 21 tháng 10 tại Hội trường Olympic. Ngày hôm sau, nhóm chính thức phát hành album I Am You[28][29].

2019: Lưu diễn Thế giới, Clé 1: Miroh, Clé 2: Yellow Wood, Clé: Levanter, Woojin rời nhóm

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2019, Stray Kids phát hành mini-album thứ tư Clé 1: Miroh với bài hát chủ đề "MIROH"[30] để kỷ niệm một năm ngày ra mắt của nhóm. Nhóm đã giành chiếc cúp đầu tiên trong chương trình âm nhạc vào ngày 4 tháng 4 trên M Countdown[31].

Ngày 19 tháng 6, nhóm đã phát hành album đặc biệt đầu tiên Clé 2: Yellow Wood, cùng với ca khúc chủ đề "Side Effects" (tiếng Hàn: 부작용)[32] giữa chặng Mỹ và chặng châu Âu trong chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của nhóm[33].

Stray Kids phát hành đĩa đơn kỹ thuật số mang tên "Double Knot"[34] vào ngày 9 tháng 10 và đồng thời bắt đầu tour diễn District 9 Unlock World Tour từ ngày 23 tháng 11 tại Hội trường Olympic, Seoul, Hàn Quốc.

Mini album thứ năm Clé: Levanter ban đầu được công bố cho phát hành vào ngày 25 tháng 11. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 10, JYP Entertainment thông báo rằng Woojin đã rời nhóm vì lý do cá nhân và việc phát hành Clé: Levanter đã bị trì hoãn đến ngày 9 tháng 12.[35]

Ngày 13 tháng 11, nhóm phát hành video âm nhạc "Astronaut"[36], đĩa đơn đầu tiên của họ trên danh nghĩa một nhóm nhạc có 8 thành viên.

Vào ngày 9 tháng 12, Stray Kids chính thức phát hành Clé: Levanter, với ca khúc chủ đề "Levanter"[37]. Levanter đã giúp nhóm giành được chiếc cúp thứ hai trong sự nghiệp tại chương trình âm nhạc M Countdown ngày 19 tháng 12 năm 2019.

Nhóm đã phát hành đĩa đơn kỹ thuật số mang tên "Mixtape: Gone Days" vào ngày 26 tháng 12 năm 2019[38].

2020: World tour District 9: Unlock, SKZ2020, GO生, IN生, ALL IN và Online concert Unlock: GO LIVE IN LIFE

[sửa | sửa mã nguồn]

Stray Kids phát hành phiên bản tiếng Anh đầu tiên của "Double Knot" và "Levanter" dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số, cùng với video trình diễn phiên bản tiếng Anh của "Double Knot" vào ngày 24 tháng 1 năm 2020[39].

Nhóm bắt đầu World tour District 9: Unlock tại Bắc Mỹ từ ngày 29 tháng 1 năm 2020 đến ngày 16 tháng 2 năm 2020[40][41].

Stray Kids ra mắt chính thức tại Nhật Bản vào ngày 18 tháng 3 năm 2020 với album tổng hợp SKZ2020, đây là bản thu mới các bài hát trước đó và bao gồm cả phiên bản tiếng Nhật của "My Pace", "Double Knot" và "Levanter" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn.

Stray Kids phát hành đĩa đơn kỹ thuật số thứ hai "Mixtape: On Track" (바보라도 알아) vào ngày 26 tháng 3 năm 2020[42].

Ngày 3 tháng 6 năm 2020, nhóm phát hành album tiếng Nhật đầu tiên có tên "TOP"[43].

Stray Kids chính thức trở lại với album phòng thu đầu tiên của mình Go Live(GO生) vào ngày 17 tháng 6 năm 2020 cùng ca khúc chủ đề "神메뉴(God's Menu)"[44] và 13 ca khúc khác trong album, bao gồm phiên bản tiếng Hàn của TOP và cả các đĩa đơn phát hành trước đó như Mixtape: Gone Days, Mixtape: On Track. Ngày 5 tháng 7 năm 2020, nhóm phát hành video âm nhạc của "Easy" - một trong những ca khúc thuộc album Go Live[45].

Ngày 14 tháng 9 năm 2020, Stray Kids phát hành album tái bản đầu tiên mang tên In Life(IN生) với ca khúc chủ đề "Back Door"[46] cùng 16 ca khúc khác, trong đó có 9 ca khúc đã được phát hành từ album Go Live(GO生). Album này đã mang lại cho nhóm thành tích lớn về doanh số album, thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng âm nhạc Hàn Quốc và giành chiến thắng tại hai show âm nhạc Show Champion, M Countdown. Hai ca khúc "Ex"[47] và "Any"[48] sau đó đã được phát hành video âm nhạc riêng vào ngày 20 tháng 9 và 27 tháng 9.

Stray Kids tiếp tục phát hành mini album tiếng Nhật đầu tiên All In vào ngày 4 tháng 11 năm 2020 với ca khúc chủ đề "All In" đã được phát hành video âm nhạc vào ngày 20 tháng 10[49]. Album gồm 7 ca khúc, trong đó có phiên bản tiếng Nhật của "God's Menu" và "Back Door".

Stray Kids thực hiện online concert đầu tiên của nhóm Unlock: Go Live In Life vào ngày 22 tháng 11 năm 2020. Ngày 26 tháng 11 năm 2020, nhóm cho ra mắt video vũ đạo của All In phiên bản tiếng Hàn.

Ngày 6 tháng 12 năm 2020, tại MAMA 2020, Stray Kids chính thức xác nhận tham gia chương trình thực tế sống còn Kingdom: Legendary war qua màn trình diễn cùng với AteezThe Boyz.

2021: Tham gia Kingdom: Legendary war và giành chiến thắng chung cuộc, trở lại với album phòng thu thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1 tháng 4 năm 2021, Stray Kids chính thức góp mặt trong chương trình thực tế sống còn mới của Mnet - Kingdom: Legendary war. Với thứ hạng tốt cùng các màn trình diễn nổi bật qua 4 vòng thi, nhóm đã giành chiến thắng với tổng điểm là 38.873.040 trong đêm chung kết của chương trình vào ngày 3 tháng 6 năm 2021.

Sau khi giành chiến thắng tại Kingdom, Stray Kids đã phát hành đĩa đơn kĩ thuật số thứ ba Mixtape:애 vào ngày 26 tháng 6 năm 2021[50]. Bài hát đã đạt vị trí #1 iTunes của 32 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bài hát cũng đạt vị trí #1 trên Billboard World Digital Song Sales. Sau Going Dumb(#5), Wolfgang(#4) thì đây là bài hát thứ 3 trong năm 2021 của Stray Kids xuất hiện trong bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales và là lần thứ 26 trong sự nghiệp của nhóm tiến vào bảng xếp hạng này.[51][52][53]

Sau gần một năm kể từ In Life, ngày 23 tháng 8 năm 2021, nhóm chính thức trở lại với album phòng thu thứ hai - NOEASY cùng bài hát chủ đề "소리꾼(Thunderous)"[54]. Lần trở lại này đã mang về cho nhóm những thành tích vượt trội về doanh số album, trở thành nhóm nhạc đầu tiên thuộc JYP Entertainment bán ra hơn 1 triệu bản album[55]. Thứ hạng trên các bảng xếp hạng âm nhạc trong nước và quốc tế cũng rất nổi bật cùng với các chiến thắng trên các chương trình âm nhạc hàng tuần.

Hơn 3 tháng sau, ngày 29 tháng 11, Stray Kids trở lại với mini-album Christmas EveL và ca khúc chủ đề cùng tên[56][57]. Album gồm 4 bài hát là Christmas EveL[58], 24 to 25[59], Winter Falls[60] và DOMINO (English Ver.)[61]. Hai bài hát là "Christmas EveL" và "DOMINO (English Ver.)" được phát hành vào ngày 29 tháng 11, trong khi "Winter Falls" được phát hành 1 ngày sau đó và "24 to 25" được phát hành vào ngày 5 tháng 12. Stray Kids thông báo nhóm sẽ không quảng bá ca khúc trên bất kỳ chương trình âm nhạc nào, như là một món quà dành tặng người hâm mộ đã gửi đến nhóm sự ủng hộ và yêu thương nồng nhiệt trong năm 2021.

2022: "Oddinary" và chuyến lưu diễn thế giới lần thứ 2 Maniac, trở lại với mini album thứ 7 mang tên "Maxident"

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 10 tháng 2 năm 2022, công ty quản lý của nhóm thông báo rằng Stray Kids đã ký hợp đồng với Republic Records để quảng bá tại Hoa Kỳ như một phần trong quan hệ đối tác chiến lược của JYP Entertainment với hãng, cùng với nhóm nhạc cùng công ty Itzy[62][63][64]. Nhóm đã tổ chức buổi gặp gỡ người hâm mộ thứ hai #LoveSTAY 'SKZ's Chocolate Factory' từ ngày 12 đến 13 tháng 2 tại Hội trường Olympic; ngày thứ hai của cuộc họp được phát sóng trên Beyond Live[65].

Stray Kids đã phát hành mini album thứ 6 ''Oddinary'' vào ngày 18 tháng 3, với bài hát chủ đề "MANIAC"[66][67]. Album đứng đầu bảng xếp hạng ở Hàn Quốc, Phần Lan, Ba Lan và Hoa Kỳ. ''Oddinary'' đã trở thành album đầu tiên của Stray Kids xuất hiện trên Billboard 200[68][69][70] và giúp họ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc thứ ba trong lịch sử đứng đầu bảng xếp hạng này, sau BTSSuperM. EP đã bán được hơn 1,5 triệu bản vào tháng 3, trở thành album bán chạy nhất của nhóm lúc đó và là album bán được triệu bản thứ hai sau Noeasy. Để ủng hộ Oddinary, Stray Kids đã công bố chuyến lưu diễn thế giới thứ 2 "Maniac" vào ngày 6 tháng 3, dự kiến ​​bắt đầu vào cuối tháng 4 tại Seoul, Hàn Quốc, sau đó là các buổi biểu diễn ở Nhật Bản và Hoa Kỳ[71].

Stray Kids sẽ phát hành mini album thứ 2 ''Circus'' và bài hát chủ đề cùng tên tại Nhật Bản vào ngày 22 tháng 6[72]. Circus ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart và đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Japan Hot Albums.

Ngày 7 tháng 10 năm 2022, Stray Kids chính thức trở lại với mini album thứ 7 với chủ để về tình yêu mang tên "Maxident" với bài hát chủ đề "CASE 143" vào ngày 7 tháng 10[73][74]. Đây là lần đầu tiên nhóm thử sức với concept tình yêu chưa từng có trước đây nhưng vẫn giữ được bản sắc vốn có của Stray Kids. Maxident về thuơng mại đã đứng đầu các bảng xếp hạng ở Hàn Quốc, Croatia, Ba Lan và Hoa Kỳ, đồng thời lọt vào top 10 ở Úc, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Hungary, Nhật Bản, Litva, New Zealand, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Mini-album này đã trở thành album đầu tiên của nhóm vượt mốc 2 triệu bản tiêu thụ. Maxident đã trở thành album thứ 2 của nhóm đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ[75][76] và giúp Stray Kids trở thành nhóm nhạc K-pop thứ 2 trong lịch sử có trên 1 lần đứng đầu bảng xếp hạng này, sau BTS. Album lần này đã được Hiệp hội nội dung âm nhạc Hàn Quốc (KMCA) chứng nhận là bán được ba triệu bản, khiến nó trở thành một trong những album bán chạy nhất ở Hàn Quốc và giành được Album Bonsang tại Lễ trao giải Golden Dics Award lần thứ 37. Thành tích của bài hát này trên các chương trình âm nhạc hàng tuần cũng vô cùng nổi bật khi san bằng kỷ lục của THUNDEROUS. Stray Kids đã trở thành nghệ sĩ K-pop duy nhất có trên 1 lần đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ vào năm 2022[77].

2023: THE SOUND, 5-STARchuyến lưu diễn 5-Star Dome Tour 2023, Social Path / Super Bowl (Japanese Ver.)ROCK-STAR

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 22 tháng 2, Stray Kids đã trở lại với album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên trong sự nghiệp của nhóm mang tên "THE SOUND" với bài hát chủ đề cùng tên[78][79][80]. Album này đã giúp nhóm đứng đầu bảng xếp hạng Oricon Albums ChartBillboard Japan Hot Albums.

Vào ngày 2 tháng 6, Stray Kids chính thức trở lại đường đua âm nhạc với album 5-STAR và bài hát chủ đề "S-Class"[81][82]. Lượng đặt trước của album 5-STAR đã phá vỡ kỷ lục của album FML của Seventeen với 5,13 triệu bản để trở thành album có lượng đặt trước cao nhất trong lịch sử Kpop vào thời điểm đó[83][84]. Ngày 11 tháng 6 (giờ New York), Billboard thông báo, album 5-STAR chính thức đạt No.1[85][86][87]. Đây là lần thứ ba nhóm đạt được vị trí này trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. 5-STAR đã trở thành album Kpop thứ 2 nằm trong top 60 BXH Billboard 200 của Mỹ trong vòng 9 tuần liên tiếp, giúp Stray Kids san bằng kỉ lục của BTS[88]. Trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, thành tích của S-Class đã san bằng kỷ lục của THUNDEROUS và CASE 143. S-Class đã dành chiến thắng cho đề cử "Best K-pop" tại MTV Video Music Awards 2023 sau khi vượt qua các bài hát Girls của aespa, Pink Venom của BLACKPINK, Cupid của FIFTY FIFTY, Super của SEVENTEENSugar Rush Ride của TXT[89][90][91]. Ngày 19 tháng 11 (theo giờ New York), 5-STAR chính thức vượt qua Face của Jimin (BTS), Get Up của NewJeans, The Name Chapter: Temptation của TXTReady to Be của Twice để giành giải thưởng "Top K-pop Album" tại Billboard Music Awards 2023[92].

Sau khi kết thúc đợt quảng bá S-Class, vào chiều ngày 23 tháng 6, JYP Entertainment đã phát hành áp phích của buổi fan meeting thứ 3 của nhóm với tên gọi "PILOT: FOR 5 STAR" trên kênh SNS chính thứ của họ[93]. Buổi fan meeting của Stray Kids được tổ chức tại nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic (KSPO Dome) vào lúc 18h ngày 1 tháng 7 và 17h ngày 2 tháng 7[94].

Trước đó, vào ngày 12 tháng 6, Stray Kids thông báo rằng nhóm sẽ tổ chức chuyến lưu diễn mang tên "5-Star Dome Tour" tại Hàn QuốcNhật Bản[95][96][97]. Tour diễn của Stray Kids sẽ khởi động từ PayPay DomeFukuoka vào ngày 16 và 17 tháng 8, sau đó tiếp tục tại Vantelin DomeNagoya vào ngày 2 và 3 tháng 9, Kyocera DomeOsaka vào ngày 9 và 10 tháng 9, Gocheok Sky DomeSeoul vào ngày 21 và 22 tháng 10 và kết thúc tại Tokyo Dome ở thủ phủ Nhật Bản - Tokyo vào ngày 28 và 29 tháng 10.

Ngày 5 tháng 9, sau 7 tháng kể từ album THE SOUND, Stray Kids chính thức trở lại thị trường Nhật Bản với mini-album Social Path / Super Bowl (Japanese Ver.) và bài hát chủ đề "Social Path"[98]. Mini-album được phát hành vào ngày 6 tháng 9, thông qua Epic Records Janpan. Nó đã được coi là "EP đầu tiên tại Nhật Bản" của nhóm, mặc dù có hai mini-album trước đó là All In (2020) và Circus (2022). Khi ra mắt, Social Path / Super Bowl (Japanese Ver.) đã giúp nhóm đạt được vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album OriconAlbum Hot Billboard Nhật Bản. Bài hát chủ đề Social Path còn có sự xuất hiện của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật LiSa[99][100]. Album gồm ba bài hát là Social Path (feat. LiSa)[101], Super Bowl (Japanese ver.)[102] và Butterflies[103]. Phiên bản tiếng Nhật của "Super Bowl" được phát hành vào ngày 9 tháng 8, trong khi Social Path và Butterflies được phát hành vào ngày 29 tháng 8.

Ngày 10 tháng 11, sau hơn 5 tháng kể từ album 5-STAR, Stray Kids chính thức comeback với mini-album ROCK-STAR và bài hát chủ đề "락 (樂) (LALALALA)"[104][105][106]. Mini-album này có 8 ca khúc, trong đó có một đĩa đơn là "LALALALA". Ngày 19 tháng 11, Billboard thông báo, ROCK-STAR chính thức đạt No.1[107][108][109]. Đĩa đơn "LALALALA" đã trở thành ca khúc đầu tiên của Stray Kids lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 90[110][111], giúp Stray Kids trở thành nhóm nhạc gen4 đầu tiên có bài hát lọt vào bảng xếp hạng này[112]. ROCK-STAR đã đưa Stray Kids trở thành nghệ sĩ K-pop đạt 4 lần đứng đầu bảng xếp Billboard nhanh nhất (gần 20 tháng), nghệ sĩ nhanh nhất toàn cầu làm được điều này kể từ Taylor Swift giai đoạn 2020-2021[113][114] và nghệ sĩ đầu tiên có 4 lần đầu lọt bảng xếp hạng Billboard đều ở No.1 kể từ Alicia Keys giai đoạn 2001 - 2007. Bài hát chủ đề "LALALALA" dành được 3 chiến thắng trên các chương trình âm nhạc hàng tuần. Ngoài Mỹ, Rock-Star còn đứng đầu bảng xếp hạng ở Hàn Quốc, Áo, Hungary, Nhật Bản và Ba Lan.

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chú thích: In đậm là nhóm trưởng
Danh sách thành viên của Stray Kids
Nghệ danh Tên khai sinh Linh vật đại diện (SKZOO) Unit Ngày sinh Nơi sinh Quốc tịch
Latinh Hangul Kana Latinh Hangul Kana
Thành viên hiện tại
Bang Chan 방찬 バンチャン Bang Chan 방찬 バン・チャン Sói (Wolf Chan) 3RACHA 3 tháng 10, 1997 (27 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc Úc
Christopher Chan Bang 크리스토퍼 찬 방 クリストファー・チャン・バン
Lee Know 리노 リノ Lee Min-ho 이민호 イ・ミンホ Thỏ (Leebit) Dance Racha 25 tháng 10, 1998 (26 tuổi) Hàn Quốc Gimpo, Hàn Quốc  Hàn Quốc
Changbin 창빈 チャンビン Seo Chang-bin 서창빈 ソチャンビン Thỏ heo (DWAEKKI) 3RACHA 11 tháng 8, 1999 (25 tuổi) Hàn Quốc Yongin, Hàn Quốc
Hyunjin 현진 ヒョンジン Hwang Hyun-jin 황현진 ファン・ヒョンジン Chồn sương (Jiniret) Dance Racha 20 tháng 3, 2000 (24 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc
HAN ハン Han Ji-sung 한지성 ハン・ジソン Quokka (HAN QUOKKA) 3RACHA 14 tháng 9, 2000 (24 tuổi) Hàn Quốc Incheon, Hàn Quốc
Felix 필릭스 フィリックス Felix Yongbok Lee 필릭스 용복 리 フェリックス・ヨンボク・リー Gà con (BbokAri) Dance Racha 15 tháng 9, 2000 (24 tuổi) Úc Sydney, Úc Úc
Lee Yong-bok 이용복 イ・ヨンボク
Seungmin 승민 スンミン Kim Seung-min 김승민 スンミン Cún (PuppyM) Vocal Racha 22 tháng 9, 2000 (24 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc
I.N 아이엔 アイエン Yang Jeong-in 양정인 ヤン・ジョンイン Cáo sa mạc (FoxI.Ny) 8 tháng 2, 2001 (23 tuổi) Hàn Quốc Busan, Hàn Quốc
Cựu thành viên
Woojin 우진 ウジン Kim Woo-jin 김우진 キム・ウジン Vocal Racha 8 tháng 4, 1997 (27 tuổi) Hàn QuốcGyeonggi, Hàn Quốc  Hàn Quốc

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Dẫn chương trình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Kênh Tên Thành viên Ghi chú
2018 Arirang TV After School Club Bang Chan MC đặc biệt ngày 13/6 (tập 320)
Mnet M Countdown Seungmin MC đặc biệt ngày 4/4
KCON 2018 NY Bang Chan, Felix MC ngày 23/6
Arirang TV After School Club Bang Chan MC đặc biệt ngay 18/7 (tập 325)
Seungmin MC cố định từ ngày 24/7 đến 25/12
Mnet M Countdown MC đặc biệt ngày 23/8
2019 SBS Inkigayo Hyunjin MC đặc biệt từ 20/1 đến 3/2
Arirang TV Simply K-Pop Felix MC đặc biệt ngày 1/2
Mnet M Countdown Felix, Seungmin MC đặc biệt ngày 28/03
MBC M Show Champion Felix MC đặc biệt ngày 10/4
Lee Know MC đặc biệt ngày 19/4
MBC Show! Music Core Hyunjin MC đặc biệt ngày 21/9
Mnet M Countdown Seungmin MC đặc biệt ngày 20/6
KBS World We K-pop MC cố định từ 12/7 đến 11/10
Mnet M Countdown Felix, Seungmin MC đặc biệt ngày 10/10
MBC M Show! Music Core I.N MC đặc biệt ngày 21/9 và 28/12
2019 - 2020 Hyunjin MC cố định từ 16/2/2019 đến 1/8/2020
Arirang Pops In Seoul Felix MC cố định từ 1/7/2019 đến 3/1/2020
2020 MBC M Show! Music Core Han MC đặc biệt ngày 10/10
MC đặc biệt ngày 16/10
Felix, Seungmin MC đặc biệt ngày 18/4/2020
2020-2021 Hyunjin MC cố định từ 27/6/2020 đến 13/2/2021
2021-2023 Lee Know MC cố định từ 14/8/2021 đến 4/11/2023
2022 Weekly Idol Seungmin MC đặc biệt ngày 16/3
Show! Music Core HAN MC đặc biệt ngày 25/3
Weekly Idol Changbin MC đặc biệt ngày 17/8
Show! Music Core Seungmin MC đặc biệt ngày 8/10
HAN MC đặc biệt ngày 22/10
SBS Inkigayo I.N MC đặc biệt ngày 23/10
Mnet KCON LA Bang Chan MC đặc biệt ngày 3 (18/11)
2023 MBC Show! Music Core Changbin MC đặc biệt ngày 23/6
Mnet KCON LA Bang Chan MC đặc biệt ngày 3 (20/8)

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Stray Kids (Mnet)
  • Spot Kids
  • The 9th Mùa 1
  • The 9th Mùa 2
  • The 9th Mùa 3
  • The 9th Mùa 4
  • The 9th Mùa 5
  • SKZ & SKZ
  • CHOISKZ
  • SKZ's HONEY-TIPS
  • Two Kids Room
  • One Kid Room
  • Two Kids Room +1
  • SKZ-Talker
  • SKZ-Player
  • Finding Stray Kids
  • SKZ-VLOG
  • SKZ-RECORD
  • Two Kids Song
  • Finding Stray Kids: God Edition Mùa 2
  • ❤️ Kids Room
  • SKZ-ASMR
  • SKZ-PRACTICE ROOM
  • SKZ-CODE
  • Kingdom: Legendary War (Mnet, 2021)[115][116]
  • SKZ-SONG CAMP
  • 2 Kids Room
  • Finding Stray Kids: Get Edition

Đại sứ thương hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi Stray Kids ra mắt chính thức, 9 thành viên đã được chọn làm người mẫu cho Jambangee Jeans vào năm 2018, được công bố vào ngày 13 tháng 2 với bộ sưu tập mùa xuân của thương hiệu.[117] Vào ngày 26 tháng 6, họ đã được chọn là người mẫu độc quyền của Ivy Club cho học kỳ mùa thu 2018.[118] Vào ngày 19 tháng 7, họ đã nhận được hợp đồng quảng cáo đầu tiên với Minute Maid Sparkling.[119] Năm ngày sau, nhóm đã được chọn làm người mẫu quảng cáo cho "Youth Brand Festival" của CGV từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 31 tháng 8. Vào ngày 19 tháng 9, Stray Kids đã được chọn làm đại sứ mới nhất của Lotte Duty Free. Điều này được công bố trên các tài khoản YouTubeInstagram chính thức của Lotte Duty Free. Vào ngày 16 tháng 10, Stray Kids đã trở thành người mẫu mới của thương hiệu đồ thể thao Hàn Quốc, Pro-Specs.[120] Vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, Stray Kids đã chính thức trở thành người mẫu mới của thương hiệu mỹ phẩm CLIO[121]. Ngày 8 tháng 6 năm 2021, nhóm chính thức hợp tác với thương hiệu thời trang WEGO tại Nhật Bản[122]. Vào ngày 6 tháng 9 năm 2021, Stray Kids chính thức trở thành đại sứ thương hiệu toàn cầu cho thương hiệu mỹ phẩm Hàn Quốc - Nacific[123].

Ngày 20 tháng 7 năm 2023, Hyunjin được Versace công bố là Đại sứ toàn cầu của hãng[124][125]. Ngày 22 tháng 8 năm 2023, Felix chính thức trở thành House Ambassador của Louis Vuitton[126][127][128].

Ngày 11 tháng 9 năm 2023, Stray Kids trở thành Đại sứ châu Á của hãng Tommy Hilfiger[129][130].

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ngày Bài hát
2020 23 tháng 9 "Back Door"
2021 1 tháng 9 "Thunderous"
8 tháng 9
2022 30 tháng 3 "MANIAC"
12 tháng 10 "CASE 143"
19 tháng 10
2023 7 tháng 6 "S-Class"
14 tháng 6
15 tháng 11 "LALALALA"
2024 31 tháng 7 "Chk Chk Boom"
7 tháng 8
14 tháng 8
Năm Ngày Bài hát Điểm
2019 4 tháng 4 "MIROH" 5870
19 tháng 12 "Levanter"
2020 24 tháng 9 "Back Door" 7086
2021 2 tháng 9 "Thunderous" 7180
9 tháng 9 9421
2022 13 tháng 10 "CASE 143" 7658
20 tháng 10
2023 8 tháng 6 "S-Class" 6720
15 tháng 6
2024 25 tháng 7 "Chk Chk Boom"
Năm Ngày Bài hát Điểm
2021 3 tháng 9 "Thunderous" 6686
10 tháng 12 "Christmas EveL" 4620
2022 25 tháng 3 "MANIAC" 10596
14 tháng 10 "CASE 143" 11168
21 tháng 10 8113
2023 9 tháng 6 "S-Class" 13481
16 tháng 6 8333
17 tháng 11 "LALALALA" 10481
2024 26 tháng 7 "Chk Chk Boom" 11462
16 tháng 8 8031
Năm Ngày Bài hát Điểm
2023 18 tháng 11 "LALALALA" 6901
Năm Ngày Bài hát Điểm
2021 5 tháng 9 "Thunderous" 6116

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kim, Jin-seok. “[단독]JYP·Mnet, 남자아이돌 프로그램 하반기 론칭”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  2. ^ Park, Gwi-im. “JYP·Mnet, 보이그룹 서바이벌 '스트레이 키즈' 확정…10月 첫방 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). TV Report. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  3. ^ Seon, Mi-kyung. “JYP 새 보이그룹, 강렬한 스타트..'스트레이 키즈' MV 첫 공개”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
  4. ^ Stray Kids "Hellevator" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  5. ^ “JYP's 'Stray Kids' revealed in teaser image”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  6. ^ Jang, Soo-min. '스트레이키즈' 박진영 "7명이 로봇강아지라면 9명이 살아있는 강아지"(종합)”. Naver (bằng tiếng Hàn). News1 Korea. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  7. ^ Lee, Ji-hyun. “JYP 新 보이그룹 '스트레이 키즈' 1월 8일 프리 데뷔 앨범 발매”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2017.
  8. ^ “Stray Kids "Grrr 총량의 법칙" Performance Video”.
  9. ^ Jeong, Ah-ram. "JYP 新 기대주" 스트레이 키즈, 오늘(8일) 전격 데뷔”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2018.
  10. ^ Go, Seung-ah. “[팝's신곡]"JYP 신예의 첫걸음"…스트레이키즈 표 '믹스 테잎'. Naver (bằng tiếng Hàn). Herald Pop. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2018.
  11. ^ Kim, Young-rok. “美 빌보드 "스트레이키즈, 2018년 주목할 K팝 아티스트 1위". Naver (bằng tiếng Hàn). Chosun Sports. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  12. ^ “2018년 02주차 Album Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  13. ^ Herman, Tamar. “Stray Kids Drum Up Interest With 'Mixtape' Album Ahead of Formal K-Pop Debut”. Billboard. Billboard Music. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  14. ^ Herald, The Korea (ngày 6 tháng 3 năm 2018). “JYP's Stray Kids to officially debut on March 25” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2018.
  15. ^ Stray Kids "District 9" M/V, truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023
  16. ^ “JYP Entertainment boy band Stray Kids to debut this month”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  17. ^ Herman, Tamar. “JYP Entertainment's New Boy Band Stray Kids' Debuts With 'District 9': Watch the Music Video”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  18. ^ Kwak, Hyun-soo. '데뷔 10일차' 스트레이 키즈, 소년 美-카리스마 매력 인기 쌍끌이”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports DongA. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  19. ^ Kang, Kyeong-joo. "방탄소년단 다음은 우리" 스트레이 키즈 '미러' MV 공개, 누리꾼 반응이…”. Naver (bằng tiếng Hàn). Hankyung. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  20. ^ “2018년 13주차 Album Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  21. ^ “2018년 03월 Album Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  22. ^ Kim, Je-na. 'KCON 2018 JAPAN', 세븐틴-스트레이키즈-여자친구 등 둘째 날도 화려한 라인업”. Star Daily News (bằng tiếng Hàn). Star Daily News. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  23. ^ “KCON 2018 Japan drew 68,000 K-pop fans: organizers”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  24. ^ Stray Kids "My Pace" M/V, truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023
  25. ^ “Stray Kids to return with 'I am Who' in August”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ Kim, Hye-soo. “Stray Kids content with Aug. 5 showcase of 'Unveil [Op.02: I am Who]'. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2018.
  27. ^ Herman, Tamar. “Stray Kids Release the Energetic 'My Pace': Watch the Music Video”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2018.
  28. ^ Herman, Tamar (23 tháng 10 năm 2018). “Stray Kids Look Inward on 'I Am You' EP: Watch the Single's Music Video”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  29. ^ Stray Kids "I am YOU" M/V, truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023
  30. ^ Stray Kids "MIROH" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  31. ^ Hằng, Đào (6 tháng 4 năm 2019). “Với MIROH, hội trẻ lạc Stray Kids dành cúp âm nhạc đầu tiên sau hơn 1 năm ra mắt”. BlogAnChoi. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  32. ^ Stray Kids "부작용(Side Effects)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  33. ^ Benjamin, Jeff (25 tháng 6 năm 2019). “Stray Kids Detail Their 'Darker,' Special 'Yellow Wood' Album & How They Travel the 'Road Not Taken'. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  34. ^ Stray Kids "Double Knot" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  35. ^ “K-Pop star Woojin leaves Stray Kids group for 'personal reasons'. The Independent (bằng tiếng Anh). 28 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  36. ^ Stray Kids(스트레이 키즈) "Astronaut" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  37. ^ Stray Kids "바람 (Levanter)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  38. ^ Stray Kids "Mixtape : Gone Days" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  39. ^ Stray Kids "Double Knot (English Ver.)" Performance Video, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023
  40. ^ “Stray Kids announce additional dates for District 9 : Unlock World Tour – Singapore, Manila, Jakarta confirmed”. Stray Kids announce additional dates for District 9 : Unlock World Tour – Singapore, Manila, Jakarta confirmed | Bandwagon | Music media championing and spotlighting music in Asia. (bằng tiếng Anh). 14 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  41. ^ “Stray Kids Announces Dates And Locations For World Tour”. Soompi (bằng tiếng Anh). 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023.
  42. ^ Stray Kids "바보라도 알아(Mixtape : On Track)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  43. ^ Stray Kids 『TOP -Japanese ver.-』Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  44. ^ Stray Kids "神메뉴(God's Menu)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  45. ^ Stray Kids "Easy" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  46. ^ Stray Kids "Back Door" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  47. ^ Stray Kids "미친 놈 (Ex)" Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  48. ^ Stray Kids "아니 (Any)" Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  49. ^ Stray Kids 『ALL IN』 Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  50. ^ Stray Kids "애(Mixtape : OH)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  51. ^ “Billboardcharts”. Twitter. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2021.
  52. ^ “Stray Kids tops world digital song sales chart for the first time with Mixtape:OH”. Soompi. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2021.
  53. ^ “Stray Kids score their first no.1 hit on a billboard chart this week”. Forbes. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2021.
  54. ^ Stray Kids "소리꾼(Thunderous)" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  55. ^ “Facebook”. www.facebook.com. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  56. ^ “Christmas Came Early This Year As Stray Kids Drop Official Music Video For "Christmas EveL". Koreaboo (bằng tiếng Anh). 30 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023.
  57. ^ “Stray Kids Welcomes the Holidays with "Christmas EveL" ⋆ The latest kpop news and music | Officially Kmusic”. The latest kpop news and music | Officially Kmusic (bằng tiếng Anh). 30 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023.
  58. ^ Stray Kids "Christmas EveL" M/V, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023
  59. ^ Stray Kids "24 to 25” Video, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023
  60. ^ Stray Kids "Winter Falls" M/V, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023
  61. ^ DOMINO (English Ver.), truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023
  62. ^ Benjamin, Jeff (10 tháng 2 năm 2022). “JYP & Republic Expand Strategic Partnership to Include ITZY & Stray Kids: Exclusive”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  63. ^ “JYP Entertainment expands its alliance with Republic Records, includes global partnership for Stray Kids, ITZY, and TWICE”. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023.
  64. ^ “JYP Expands Partnership With Republic Records To Include Stray Kids And ITZY”. Soompi (bằng tiếng Anh). 10 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2023.
  65. ^ “Stray Kids 2nd LoveSTAY "SKZ's Chocolate Factory". Kpop Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  66. ^ Online, TTVH (4 tháng 4 năm 2022). “EP 'Oddinary' của Stray Kids: Bất thường cũng là chuyện bình thường”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  67. ^ Stray Kids "MANIAC" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  68. ^ Caulfield, Keith (28 tháng 3 năm 2022). “Stray Kids' 'Oddinary' Tops Billboard 200 Albums Chart With Biggest Sales Week of 2022”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  69. ^ “Stray Kids đứng vị trí số 1 trên Billboard 200 với album "ODDINARY". laodongtre.laodong.vn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  70. ^ “K Crush - STRAY KIDS ĐẠT #1 BILLBOARD 200 VỚI "ODDINARY" Theo Lumiante, "ODDINARY" ghi nhận 110,000 album unit, trong đó có 103,000 pure sales, 500 TEA và 6,500 SEA unit tương đương 10.09 triệu lượt stream theo yêu cầu. Stray Kids là nghệ sĩ Hàn thứ 3 đứng đầu Billboard 200. | Facebook”. www.facebook.com. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  71. ^ “2nd World Tour "MANIAC". Stray Kids Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  72. ^ Stray Kids 『CIRCUS』 Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  73. ^ lethimythoa (11 tháng 10 năm 2022). “StrayKids cùng cú đột phá MAXIDENT”. BlogAnChoi. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  74. ^ Stray Kids "CASE 143" M/V, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  75. ^ Online, TTVH (24 tháng 10 năm 2022). “Tình yêu mạnh mẽ của Stray Kids trong 'Maxident'. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  76. ^ “Facebook”. www.facebook.com. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  77. ^ Online, TTVH (17 tháng 10 năm 2022). “Stray Kids chính là nghệ sĩ duy nhất thế giới có 2 No.1 Billboard 200 năm nay”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  78. ^ Stray Kids 『THE SOUND』 Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  79. ^ “THE SOUND”. Stray Kids Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2023.
  80. ^ “Stray Kids『THE SOUND』Special Site”. www.straykidsjapan.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2023.
  81. ^ Stray Kids "특(S-Class)" M/V, truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023
  82. ^ “5-STAR”. Stray Kids Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2023.
  83. ^ “Stray Kids vượt BTS, phá kỷ lục lượng đặt trước album của Seventeen”. laodong.vn. 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  84. ^ Mee (30 tháng 5 năm 2023). “Stray Kids trở thành nghệ sĩ sở hữu album có lượng pre-order cao nhất trong lịch sử Kpop”. BlogAnChoi. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  85. ^ “Stray Kids' '5-STAR' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Yahoo Sports (bằng tiếng Anh). 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2023.
  86. ^ Brandle, Lars (2 tháng 6 năm 2023). “Stray Kids Check In With '5-Star': Stream It Now”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2023.
  87. ^ Online, TTVH (14 tháng 6 năm 2023). “Stray Kids ra mắt ở vị trí quán quân Billboard”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  88. ^ “Stray Kids trở thành nghệ sĩ K-pop thứ hai làm được điều này trong lịch sử”. Báo điện tử Tiền Phong. 9 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  89. ^ Lynch, Joe (13 tháng 9 năm 2023). “Stray Kids Nab a VMA, Share Message With Fans About the Future”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  90. ^ “Stray Kids win 'Best K-Pop' award at VMAs”. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  91. ^ “Stray Kids Wins 'Best Kpop' at the 2023 VMAs”. kpopping.com (bằng tiếng Anh). 13 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  92. ^ www.bing.com https://www.bing.com/ck/a?!&&p=c1f74dd5456ea535JmltdHM9MTcwMDg3MDQwMCZpZ3VpZD0zYzU3NmM2YS1iMGQ3LTY0ZWYtM2FlNi03ZDRiYjFlYjY1ODUmaW5zaWQ9NTM4Ng&ptn=3&ver=2&hsh=3&fclid=3c576c6a-b0d7-64ef-3ae6-7d4bb1eb6585&psq=stray+kids+billboard+music+awards+2023&u=a1aHR0cHM6Ly93d3cuYmlsbGJvYXJkLmNvbS92aWRlby9zdHJheS1raWRzLWJibWFzLWFjY2VwdGFuY2Utc3BlZWNoLw&ntb=1. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  93. ^ “Stray Kids tổ chức fan meeting trong tháng 7”. world.kbs.co.kr. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  94. ^ “Stray Kids announce their third official fan meeting in Korea”. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2023.
  95. ^ Shinde, Sasha (17 tháng 6 năm 2023). “All you need to know about Stray Kids' 5-STAR Dome Tour: Dates, capacity, and more”. www.sportskeeda.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  96. ^ “Stray Kids Announces "5-STAR Dome Tour 2023" + Unveils New Light Stick”. Soompi (bằng tiếng Anh). 12 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  97. ^ “5-STAR Dome Tour 2023”. Stray Kids Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  98. ^ “Stray Kids JAPAN 1st EP Special Site”. www.straykidsjapan.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  99. ^ “Stray Kids to collab with LiSA for upcoming Japanese EP title track 'Social Path'. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  100. ^ cookiecream (29 tháng 7 năm 2023). “Stray Kids hợp tác với ca sĩ OST anime nổi tiếng này trong EP tiếng Nhật sắp tới”. BlogAnChoi. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  101. ^ Stray Kids 『Social Path (feat. LiSA)』 Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  102. ^ Stray Kids 『Super Bowl -Japanese ver.-』 Music Video, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  103. ^ Butterflies, truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023
  104. ^ Stray Kids "락 (樂) (LALALALA)" M/V, truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023
  105. ^ “Stray Kids Rock-Star Comeback”. thesocialtalks.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  106. ^ “MSN”. www.msn.com. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  107. ^ McIntyre, Hugh. “Stray Kids Chart Their Fourth No. 1 Album In America With 'Rock-Star'. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  108. ^ Sisario, Ben (20 tháng 11 năm 2023). “Stray Kids Score Another No. 1 With 'Rock-Star'. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  109. ^ Caulfield, Keith (19 tháng 11 năm 2023). “Stray Kids Score Fourth No. 1 on Billboard 200 With 'ROCK-STAR'. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  110. ^ “MSN”. www.msn.com. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  111. ^ Online, TTVH (22 tháng 11 năm 2023). “Stray Kids lần đầu góp mặt trên Billboard Hot 100”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  112. ^ “MSN”. www.msn.com. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  113. ^ “MSN”. www.msn.com. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  114. ^ “Stray Kids Becomes Fastest Artist Since Taylor Swift To Rack Up 4 No. 1 Albums On Billboard 200”. Soompi (bằng tiếng Anh). 19 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2023.
  115. ^ “Kingdom: Legendary War”. koreajoongangdaily. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.
  116. ^ “Kingdom: Legendary War”. breaknews. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.[liên kết hỏng]
  117. ^ Kim, Eun-joo. 'JYP 신예' 스트레이 키즈, 잠뱅이 모델 낙점”. Naver (bằng tiếng Hàn). E Daily. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  118. ^ Dongho, Dongho. '아이비클럽, 새로운 입학생 JYP 신예 '스트레이 키즈'. Naver News (bằng tiếng Hàn). E Daily. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2018.
  119. ^ “이벤트” (bằng tiếng Hàn). CGV. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2018.
  120. ^ Kim, Eun-joo. “스트레이 키즈, 스포츠 브랜드 새 모델 발탁”. Naver News (bằng tiếng Hàn). E Daily. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2018.
  121. ^ CLIO Stray Kids, Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2021, truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2021
  122. ^ “WEGO x Stray Kids”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2021.
  123. ^ “Stray Kids trở thành gương mặt đồng hành cùng thương hiệu mỹ phẩm Nacific, hứa hẹn một chặng đường thú vị”. GUU.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  124. ^ “Hyunjin (Stray Kids) trở thành Đại sứ toàn cầu của thương hiệu Versace - Style-Republik.com | Thời Trang, sáng tạo và kinh doanh”. Style-Republik.com | Thời Trang, sáng tạo và kinh doanh - TRANG TIN UY TÍN VỀ THỜI TRANG, SÁNG TẠO VÀ KINH DOANH (bằng tiếng Anh). 24 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  125. ^ Do, Vi (21 tháng 7 năm 2023). “Versace tuyên bố Hyunjin (Stray Kids) là Đại sứ thương hiệu toàn cầu”. Harper's Bazaar Việt Nam. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  126. ^ “Felix Lee của nhóm nhạc Stray Kids là Đại sứ mới nhất của thương hiệu xa xỉ Louis Vuitton - Style-Republik.com | Thời Trang, sáng tạo và kinh doanh”. Style-Republik.com | Thời Trang, sáng tạo và kinh doanh - TRANG TIN UY TÍN VỀ THỜI TRANG, SÁNG TẠO VÀ KINH DOANH (bằng tiếng Anh). 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  127. ^ Do, Vi (22 tháng 8 năm 2023). “Felix (Stray Kids) trở thành đại sứ Louis Vuitton nhưng lại là ở dòng thời trang nữ”. Harper's Bazaar Việt Nam. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  128. ^ “Felix (Stray Kids) chính thức trở thành Đại sứ thương hiệu Louis Vuitton”. L’Officiel Vietnam | The Fashion Revolution. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  129. ^ Writer, Kpop News (12 tháng 9 năm 2023). “Look: Tommy Hilfiger Selects Stray Kids as Their Ambassador”. K-POP LIFE (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.
  130. ^ “Stray Kids named Asia Ambassador for fashion brand Tommy Hilfiger”. PINKVILLA (bằng tiếng Anh). 11 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Stray Kids