Only Girl (In the World)
"Only Girl (In the World)" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Rihanna | ||||
từ album Loud | ||||
Phát hành | 10 tháng 9 năm 2010 | |||
Thu âm | 2010 | |||
Phòng thu |
| |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 3:55 | |||
Hãng đĩa |
| |||
Sáng tác | ||||
Sản xuất | ||||
Thứ tự đĩa đơn của Rihanna | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Only Girl (In the World)" trên YouTube |
"Only Girl (In the World)" là một bài hát của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna nằm trong album phòng thu thứ năm Loud (2010) của cô, được phát hành làm đĩa đơn chủ đạo của album vào ngày 10 tháng 9 năm 2010. Crystal Johnson đã sáng tác bài hát này cùng với các nhà sản xuất Stargate và Sandy Vee. Rihanna đã liên hệ với Stargate trước khi bắt tay vào sản xuất Loud và cô yêu cầu họ tạo ra một bài nhạc sôi động có tiết tấu nhanh. "Only Girl (In the World)" là ca khúc đầu tiên được sáng tác cho album, và nữ ca sĩ người Barbados đã quyết định đưa ca khúc này vào danh sách bài hát của album ngay trước khi cô thu âm cho bài hát. "Only Girl (In the World)" là một ca khúc thuộc thể loại dance-pop và Eurodance, được biên soạn và phối khí bằng dụng cụ bass đập mạnh và synthesizer. Nội dung lời bài hát nói về khao khát của Rihanna được người cô yêu chiếm lấy thể xác, như thể cô là người con gái duy nhất còn tồn tại trên thế giới này.
"Only Girl (In the World)" đã nhận được nhiều phản ứng tích cực của các nhà phê bình. Nhiều cây bút đã khen ngợi quá trình sáng tác và quyết định của Rihanna về việc rời khỏi bối cảnh tăm tối trong album Rated R (2009) trước đó của cô. Bài hát đã leo lên vị trí đầu bảng ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ, sau hai tuần tính từ đĩa đơn thứ hai của Loud là "What's My Name?" nhảy cóc lên vị trí dẫn đầu. "Only Girl (In the World)" đã trở thành đĩa đơn chủ đạo đầu tiên của một album trong lịch sử bảng xếp hạng leo lên vị trí quán quân muộn hơn đĩa đơn thứ hai. Tại Anh Quốc, bài hát đã dành hai tuần ở vị trí số một và được xếp thứ 19 trong danh sách đĩa đơn của một nghệ sĩ nữ bán chạy nhất mọi thời đại, nhờ vào tổng doanh số trên một triệu bản. "Only Girl (In The World)" còn đạt được thành công về mặt thương mại ở các quốc gia khác. Đĩa đơn đã soán ngôi đầu bảng ở các bảng xếp hạng Canada, Scotland, Úc, New Zealand, Ireland, Áo, Bỉ, Ba Lan, Ý, Romania, Hungary, Na Uy và Slovakia, đồng thời leo lên được vị trí top 2 tại các thị trường như Pháp và Đức.
Rihanna đã trình diễn "Only Girl (In the World)" trong chương trình Saturday Night Live ở Hoa Kỳ, The X Factor ở Anh Quốc và phiên bản ngắn tại Giải Brit lần thứ 31. Cô còn biểu diễn bài hát này trong chương trình giữa hiệp Super Bowl LVII liên khúc với "Where Have You Been". Anthony Mandler là người đạo diễn cho video âm nhạc của bài hát, và các nhà phê bình đã khen ngợi chủ đề sáng và đầy màu sắc trong đó. Nội dung của video âm nhạc nói về Rihanna đang bơ vơ ca hát một mình ở giữa khung cảnh thiên nhiên bát ngát, đồng thời thể hiện cô là người phụ nữ duy nhất trên thế giới này nhằm tô đậm ý nghĩa của tiêu đề và lời bài hát. "Only Girl (In the World)" đã đoạt giải Grammy cho Thu âm nhạc dance/điện tử xuất sắc nhất tại buổi lễ lần thứ 53 vào năm 2011.
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Khoảng đầu năm 2009, nhiều phương tiện truyền thông đại chúng đã dự đoán rằng trong album phòng thu thứ tư của Rihanna sẽ có một hoặc nhiều bài hát kể về sự việc hành hung của Chris Brown. Nam ca sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc Ne-Yo đính chính rằng Rihanna sẽ không làm nhạc về vụ việc trong album mới.[1] Album Rated R được lên kệ vào tháng 11 năm 2009 mang đậm màu sắc pop[2] lẫn R&B,[3] và pha trộn cùng với những yếu tố thể loại hip-hop, dancehall[4] và rock.[5] Sau khoảng thời gian phát hành và quảng bá Rated R, Rihanna bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ năm và cam kết rằng nhạc phẩm mới của cô sẽ "ngổ ngáo, vui nhộn, cửa cẩm và tràn đầy năng lượng".[6] Trong một cuộc phỏng vấn với MTV Anh, phó chủ tịch hãng đĩa Def Jam Recordings Bu Thiam đã phát biểu rằng album kế tiếp của Rihanna có thể giống như một trong những album bán chạy nhất thế giới Thriller của Michael Jackson, "Rihanna tiến bộ [trong âm nhạc] đến đáng kinh. Tôi đang cố gắng thúc đẩy cô ấy đạt đến cảnh giới là mỗi bài hát trong album đều sẽ là một bản hit từ bài số 1 cho đến 12. Tôi sẽ nói KHÔNG với những bài hát chỉ mang tính chất nhồi nhét vào album cho đủ (album fillers). Thước đo của chúng tôi cho album lần này đó chính là Thriller của Michael Jackson."[7] Rihanna đã hợp tác cùng Antonio "L.A." Reid để thành lập một đội ngũ hơn 50 nhà sáng tác chuyên nghiệp đảm nhận công việc tại hầu hết phòng thu lớn bên thành phố Los Angeles do hãng đĩa Def Jam Recordings thuê lại gần như toàn bộ để độc quyền viết nhạc album mới trong vòng hai tuần cho nữ ca sĩ. Sau thời gian đó, nhóm đội ngũ tác giả đã sáng tác và sản xuất khoảng 200 bài hát cho Rihanna, nhưng chỉ có những bài hay nhất trong số đó là được chọn đưa vào album Loud, trong đó có "Only Girl (In the World)".[8][9][10]
Thu âm và phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]"Only Girl (In the World)" được Crystal Johnson soạn lời cùng với các nhà sản xuất Stargate và Sandy Vee.[11] Rihanna trước đó đã từng hợp tác với Stargate trong các đĩa đơn "Hate That I Love You", "Don't Stop the Music" và "Rude Boy".[12] Tháng 2 năm 2011, Stargate cho biết Rihanna đã đến gặp bộ đôi sản xuất người Na Uy rồi bắt tay vào thu âm cho dự án không tựa đề sau này. Họ tiết lộ thêm rằng nữ ca sĩ người Barbados muốn được vui sướng và sản xuất các ca khúc thật nhộn nhịp và mang tiết tấu nhanh.[13] Theo lời kể của Tor Erik Hermansen thuộc đội ngũ Stargate, "Only Girl (In the World)" là ca khúc đầu tiên được sáng tác cho album Loud và Rihanna đã quyết định đưa bài hát đó vào album trước, rồi mới tiến hành thu âm sau.[13] Bên cạnh đó, nữ ca sĩ người Mỹ Katy Perry cũng nghe được và muốn đảm nhận "Only Girl", nhưng Stargate đã sáng tác cho Rihanna và nữ ca sĩ người Barbados đã đồng ý trước.[14] Trong một cuộc trò chuyện webchat với người hâm mộ, Rihanna tiết lộ cô muốn tiến thêm một bước nâng cấp kế tiếp với vai trò là một nghệ sĩ:[15] "Tôi không muốn phải cải lùi và làm lại Good Girl Gone Bad. Tôi muốn bước kế tiếp cho sự tiến hoá của Rihanna, và điều đó sẽ thật hoàn hảo cho chúng ta. Các bạn đã luôn luôn bao bọc che chở tôi, cho nên bây giờ các bạn cũng sẽ được [tôi] báo đáp bằng một vài bản nhạc hay."[16] Nữ ca sĩ cho rằng "Only Girl (In the World)" có "âm thanh khủng" còn hơn cả "Rude Boy",[16] và cô đã phải chuẩn bị tinh thần cũng như nghỉ giọng vài ngày rồi mới tiến hành thu âm bài hát.[17]
Quá trình thu âm Loud được diễn ra từ tháng 2 năm 2010 cho đến tháng 8 cùng năm, và đây là khoảng thời gian Rihanna còn thực hiện chuyến lưu diễn Last Girl on Earth cũng như ghi hình bộ phim mà nữ ca sĩ góp mặt đầu tiên, Chiến hạm (2012).[18][19] Trước khi Rihanna thu âm, Johnson đã hát bản demo "Only Girl (In the World)" và gửi cho nữ ca sĩ người Barbados. Tất cả mọi thứ của bài hát đều đã hoàn chỉnh từ trước kể cả những tiếng cười khúc khích và những câu ứng khẩu ở dòng lời đầu tiên. Tuy Rihanna hiếm khi là người tham gia viết nhạc nhưng cô vẫn nhiệt tình đảm nhận ca khúc và tái tạo lại theo phong cách của bản thân.[14] Về quá trình, phần phối khí của "Only Girl (In the World)" được sản xuất bởi Mikkel Storleer Eriksen của nhóm Stargate và Miles Walker ở phòng thu Roc the Mic tại thành phố New York và Westlake Recording ở Los Angeles.[11] Để sản xuất bài hát, Stargate đã chuẩn bị sẵn hàng chục bản nhạc được tạo ra bằng cách sử dụng đàn phím để trộn âm cho đến khi tìm ra ý tưởng nhờ vào tiến trình hợp âm chính của bài hát hoặc đoạn riff. Sau đó, nhóm sản xuất tận dụng nhiều loại âm thanh và đoạn nhịp được lập trình sẵn để hoàn thiện "Only Girl (In the World)", và Hermansen cho rằng phương pháp này giống "những hương vị mới đang chờ đợi nhà sản xuất nước giải khát hoặc khoai tây chiên phù hợp xuất hiện."[20] Ngoài ra, Vee cũng thực hiện sản xuất khí nhạc tại The Bunker ở thủ đô Paris, đồng thời phụ trách làm bản phối. Kuk Harrell phụ trách sản xuất chất giọng của Rihanna, và thu âm nữ ca sĩ cùng với Josh Gudwin và Marcos Tovar. Inaam Haq, Dane Liska và Brad Shea ghi âm giọng hát nền. "Only Girl (In the World)" được Phil Tan phối trộn tại Ninja Beat Club, còn phần kỹ thuật âm thanh thì được chính tay Damien Lewis thực hiện. Eriksen, Vee và Hermansen là những người hoàn thiện phần nhạc nền ở giai đoạn cuối cùng, và Johnson sẽ phụ trách hát bè.[11]
Phần ảnh bìa đĩa đơn "Only Girl (In the World)" được cho là tiếp tục đi theo chủ đề bán khỏa thân tương tự như Rated R nhưng lại sử dụng gam màu đỏ, do đây là đĩa đơn chuyển tiếp giữa hai chủ đề album. Trong bức ảnh, Rihanna đang quỳ gối khỏa thân ở giữa cánh đồng và ôm lấy một chiếc váy đỏ để che đi phần thân trần; cô mang vòng cổ và đeo một chiếc băng ở cánh tay, hình xăm dọc phần hông của nữ ca sĩ cũng có thể được nhìn thấy rõ ràng. Biểu tượng chữ 'R' của Rihanna được đặt ở góc trên bên trái bìa đĩa, còn ở giữa phía dưới là tựa đề ca khúc.[21] Ngày 31 tháng 8 năm 2010, Rihanna đăng thông báo trên Twitter có tag tên người dùng của Ryan Seacrest rằng trong vòng dưới 10 ngày nữa, cô sẽ tung ca khúc đặc biệt mà mọi người sẽ nghe đi nghe lại giống như cô gái duy nhất trên thế giới này.[22] Vài hôm sau, nữ ca sĩ thông báo sẽ công chiếu "Only Girl (In the World)" trên trang web On Air with Ryan Seacrest vào ngày 7 tháng 9 lúc 3 giờ sáng theo múi giờ Thái Bình Dương.[12] "Only Girl (In the World)" chính thức được phát hành làm đĩa đơn tải kỹ thuật số vào các ngày 10 và 13 tháng 9 ở nhiều quốc gia trên thế giới.[23][24] Ngày 21 tháng 9 năm 2010, Rihanna gửi "Only Girl" đến các trạm phát thanh hit đương đại và rhythmic đương đại ở Hoa Kỳ.[25][26]
Sáng tác
[sửa | sửa mã nguồn]"Only Girl (In the World)" là một bài hát Eurodance[27] và dance-pop,[14] được soạn theo cung độ Rê trưởng và gán số chỉ nhịp là nhịp 4
4, có tiết tấu trung bình nhanh với 126 nhịp mỗi phút.[28] Phần khí nhạc của bài hát có sử dụng đàn tổng hợp âm thanh synthesizer, "âm bass nặng nề" và nhịp đập electro mạnh,[29][30] được cho là thủ thuật mở tiệc trong công việc của DJ.[14] Mở đầu ca khúc là nhịp điệu lockstep house và một đoạn riff tổng hợp. Đi sâu vào bài hát, từng yếu tố phụ trong bài hát "Only Girl (In the World)" lần lượt xuất hiện gồm: âm thanh giục giã vang lên của đoạn điệp khúc, đoạn breakbeat dứt khoát như trong quân sự và đàn phím âm thanh tựa như "tiếng guitar có nhiều bàn đạp méo tiếng trộn lẫn cùng lúc".[14] Đoạn thứ hai của "Only Girl (In the World)" mang những nhịp điệu bass rộn ràng và khúc giang tấu được cho là giống như một "vương quốc của thú vui xác thịt".[31] Cây bút Robbie Daw bên trang Idolator đã ví quá trình sản xuất ca khúc của đội ngũ Stargate giống như "một miếng bánh pho mát khổng lồ trên sàn nhảy, thậm chí còn được phủ lên trên bằng một vài đoạn nhạc đệm trance cổ điển",[32] còn nhà phê bình Brad Wete viết cho Entertainment Weekly thì diễn tả rằng "Only Girl" chính là "phiên bản mạnh mẽ hơn và gợi cảm hơn" so với đĩa đơn năm 2007 "Don't Stop the Music" của Rihanna.[29]
Giọng ca của Rihanna trải rộng tới một rưỡi quãng tám trong bài hát "Only Girl (In the World)", từ nốt trầm nhất là F♯3 cho đến nốt cao nhất là D5,[28] và tông giọng của nữ ca sĩ được cho là "mượt mà" và "cưa cẩm".[29][30] Phần ca từ của bài hát mang đậm chủ đề tình dục, ham muốn và khao khát của Rihanna được người yêu chú ý và khiến cho cô cảm thấy như mình là người con gái duy nhất trên đời này.[14][30][32] Rihanna đã hát theo kiểu "dâng cả con tim của mình cho một người đàn ông" qua đoạn điệp khúc: "Want you to make me feel like I'm the only girl in the world/ Like I'm the only one that you'll ever love/ Like I'm the only one who knows your heart/ Only girl in the world."[30][33][b] Theo tác giả Nick Levine viết cho Digital Spy, đoạn điệp khúc "đập mãnh liệt như một con thỏ lên cơn động kinh."[34] Rihanna đã dùng tông giọng khêu gợi để thể hiện câu hát, "Baby, I'll tell you all my secrets that I'm keepin'/ You can come inside/ And when you enter, you ain't leavin'/ Be my prisoner for the night."[29][c] Fraser McAlpine ở phía BBC so sánh nội dung của ca khúc với truyện cổ tích nước Đức "Rapunzel" rằng Rihanna sẽ không sẵn lòng quăng cả bộ tóc cực dài của cô ra khỏi toà tháp cao chỉ vì muốn đưa một người đàn ông lên chỗ cô và làm cho cô thoả mãn, "đặc biệt không phải là một người chưa chuẩn bị tinh thần leo lên chiếc cửa sổ được đặt ở vị trí cao đến đáng sợ của cô ấy."[35] Tom Breihan bên trang Stereogum bày tỏ ngưỡng mộ với "Only Girl (In the World)" và cho rằng đây là bài hát trơ trẽn đã có "nỗ lực trần trụi trong việc lôi kéo bất kỳ ai vào chế độ hoàn toàn kỳ quái vào thời điểm đoạn điệp khúc cuối cùng vang lên."[14]
Đánh giá chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]"Only Girl (In the World)" đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tác giả Chloe Govan đã nhận định, đây là một bài hát đại diện cho cá tính mới mẻ và can đảm của Rihanna, không chỉ thông qua việc thay đổi phong cách mà còn cả âm thanh.[36] Bill Lamb từ trang web About.com đã chấm cho "Only Girl (In the World)" bốn sao rưỡi trên năm sao và chỉ ra các điểm mạnh của bài hát là "đoạn điệp khúc cao chót vót", "những nhịp điệu sẵn sàng cho câu lạc bộ" và "trở về với nền nhạc dance pop quen thuộc của Rihanna". Anh kết luận rằng "sẽ không có gì ngạc nhiên nếu như [Only Girl] đưa Rihanna trở lại vị trí quán quân trên bảng xếp hạng trong năm sau đĩa đơn "Rude Boy", và cũng chỉ ra bài hát còn "thiếu sót một ít chiều sâu nhưng không thành vấn đề".[31] Cây bút Gerrick D. Kennedy của tờ Los Angeles Times đã dành cho bài hát những lời nhận xét tích cực, "Mặc dù chúng ta không nhất thiết phải nói rằng Rihanna đã trở lại, bởi cô ấy đã chẳng đi đâu cả, nhưng cô ấy đang trở lại theo một kiểu cách mới." Sau khi trích dẫn ra một số câu phỏng vấn của Rihanna về "Only Girl", anh cho biết sau khi Rihanna thử nghiệm những điều khủng khiếp với đĩa nhạc thứ tư Rated R thì cô đã quyết định đi theo hướng "gợi cảm, vui nhộn, thích tán tỉnh [và] đầy năng lượng", và kết luận rằng, "Với [những giai điệu của ca khúc] tràn đầy âm bass cho câu lạc bộ và ảnh hưởng của Euro-pop, chưa kể đến đoạn điệp khúc tuyệt hay như bản anh hùng ca, bài hát chắc chắn là một hit."[37] Nhà phê bình Brandon Soderberg soạn bài đánh giá cho Pitchfork đã chứng nhận "Only Girl (In the World)" là "Best New Track" và so sánh phong cách bài hát với Donna Summer, Alicia Bridges, Lady Gaga. Soderberg phân tích rằng đoạn hook trong "Only Girl (In the World)" của Rihanna không chỉ là một khoảnh khắc hấp dẫn và không thể cưỡng lại mà còn là biểu hiện dễ bị tổn thương về mặt cảm xúc của nữ ca sĩ, tương phản với những phân khúc quyết đoán và đoạn bridge gợi cảm của bài hát.[38]
Monica Herrera viết cho tạp chí Billboard đã khen ngợi nhóm sản xuất bài hát cũng như Rihanna rằng, "[Only Girl] sẽ nhắm thẳng đến mưu đồ thống trị cả sàn nhảy, bởi có một ngôi sao nhạc pop đã thổ lộ cả con tim mình cho một người đàn ông bằng một bản ca tràn đầy tâm huyết do bộ đôi tạo hit người Na Uy Stargate sản xuất."[33] James Dinh của tờ MTV News đã khen ngợi "Only Girl (In the World)" về mặt ca từ rằng, sau khi Rihanna đã khai thác lời bài hát đầy đen tối và sâu lắng trong album trước đó thì "cô ấy đã trở lại cảnh quay sàn nhảy cùng với đĩa đơn mới nhất". Anh đánh giá cao chất giọng của nữ ca sĩ ngọt ngào ở đoạn đầu, sau đó bùng nổ ở đoạn điệp khúc.[30] Nick Levine làm tác giả cho Digital Spy đã tặng bài hát bốn trên năm sao, gọi đây là "đĩa đơn trở lại để làm hài lòng khán giả". Anh cho rằng bài hát có thể không độc đáo lắm, nhưng có lẽ Rihanna đã toả sáng vượt trội nhất sau đĩa đơn "Don't Stop the Music".[34] Fraser McAlpine bên đài BBC cũng cho đĩa đơn này bốn sao, và nhận xét rằng "bất kể bạn nghĩ như thế nào về Rihanna, cô ấy rất giỏi trong việc đòi hỏi các bạn phải nghe theo những gì cô ấy phải nói, thậm chí nếu cô ấy có làm bạn tổn thương khi làm điều đó."[35] Trong một bài đánh giá các ca khúc quán quân cũ vào năm 2023, Tom Breihan bên Stereogum đã chấm "Only Girl (In the World)" 9 trên 10 điểm. Anh đánh giá cao chất liệu bài hát hoành tráng và đầy kịch tính, cùng với giọng hát của nữ ca sĩ "cơ bắp và uy lực hơn bất cứ điều gì cô ấy đã làm cho đến thời điểm đó". Tuy nhiên, anh cho rằng bài hát vẫn còn thiếu mạch lạc ở phần chuyển giữa phân khúc và điệp khúc, và do đó "Only Girl (In the World)" vẫn chưa phải là ví dụ điển hình nhất về việc Rihanna trở thành nữ diva nhạc house toàn diện.[14]
Xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]"Only Girl (In the World)" có mặt trong nhiều danh sách xếp hạng khác nhau. Năm 2015, James Manning và Nick Levine biên tập cho Time Out đã xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 3 trong danh sách 20 bài hát hay nhất của Rihanna. Họ nhận xét ca khúc đã mang lại cho nữ ca sĩ một giải Grammy nhờ vào tài nghệ kết hợp hoàn hảo giữa âm thanh mãnh liệt và sức mạnh ngôi sao của Rihanna, đặc biệt thể hiện rõ ở phần điệp khúc hồ hởi sôi động.[39] Năm 2017, Pitchfork chọn "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 10 và nhận định ca khúc đã giải thoát hình ảnh vô tư của Rihanna, thể hiện khía cạnh dễ bị tổn thương và nài nỉ hơn qua nhịp nhạc điện tử, và thu hẹp khoảng cách giữa cảm xúc của diva nhạc house thập niên 90 với cảm xúc tha thiết thường thấy trong các bản hook EDM đương đại.[40] Năm 2018, các tác giả đến từ Rolling Stone đã xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 6 trong danh sách 30 bài hát hay nhất của Rihanna và khen ngợi rằng thông qua bài hát, nữ ca sĩ đã đi đầu trong việc củng cố ngôi vị nữ hoàng của thời đại EDM bằng việc thể hiện nét quyến rũ dưới nền nhạc âm thanh organ Europop hưng phấn và nhịp điệu progressive house xập xình.[41]
Năm 2021, biên tập viên Alexis Petridis của The Guardian đã xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 8 trong 30 bài hát hay nhất của Rihanna. Anh cho rằng đây chính là một ca khúc dance pop quyến rũ với phần điệp khúc mạnh mẽ giúp đảm bảo vị thế là một bản hit đình đám của Rihanna và bộc lộ chiều sâu cảm xúc đáng ngạc nhiên thông qua ca từ xen kẽ giữa van nài với độc đoán.[42] Bianca Gracie viết cho trang web Uproxx đã xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 9 trong danh sách ca khúc của Rihanna và bảo rằng bài hát là sự khởi đầu thành công và sôi động của Rihanna khi đã bước ra khỏi chủ đề đen tối trong album Rated R liền trước của cô, đánh dấu sự thống trị của nữ ca sĩ trong làng nhạc pop với năng lượng dồi dào của "Only Girl (In the World)" tựa như hiệu ứng Guetta và đảm bảo chuỗi hit số một của cô trong năm 2010.[43] Năm 2022, Harrison Brocklehurst trực thuộc The Tab đã chọn "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 6 trong danh sách 50 đĩa đơn xuất sắc của Rihanna. Anh ca ngợi quá trình chuyển đổi giai điệu sang nhẹ nhàng hơn của Rihanna và đặc biệt tán dương năng lượng hưng phấn ở phần nhạc khí do Stargate sản xuất đã lan tỏa bùng nổ bài hát.[44] Năm 2023, nhà báo Ed Masley (USA Today) đã xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 5 trong danh sách 20 bài hát xuất sắc nhất của Rihanna, viết rằng bản hit Europop đầy hứng khởi của Rihanna đã mang đến nhịp điệu khiêu vũ không thể cưỡng lại cùng với giọng hát đầy nhiệt huyết, khiến cho người thưởng thức phải tìm đến sàn nhảy.[45]
Diễn biến thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Bắc Mỹ
[sửa | sửa mã nguồn]Ở Hoa Kỳ, "Only Girl (In the World)" ra mắt ở vị trí thứ 75 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào tuần ngày 25 tháng 9 năm 2010,[46] sang tuần thì nhảy lên vị trí thứ 3 rồi chạm được vị trí quán quân vào tuần số ngày 4 tháng 12 năm 2010, trở thành đĩa đơn quán quân thứ 9 của Rihanna.[47] Trong khi đó, đĩa đơn thứ hai của album Loud là "What's My Name?" (hợp tác cùng với Drake) lại leo lên ngôi đầu bảng Hot 100 sớm hơn tận 2 tuần, giúp Loud lập nên kỷ lục trở thành album đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng có đĩa đơn chủ đạo leo lên vị trí số một muộn hơn đĩa đơn thứ hai.[47] "Only Girl (In the World)" là bài hát quán quân thứ 4 của Rihanna trong năm 2010, và cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên kể từ Usher (năm 2004) có 4 đĩa đơn số một trong cùng một năm.[47] Nữ ca sĩ người Barbados còn có nhiều đĩa đơn quán quân nhất (9) kể từ năm 2000.[47] "Only Girl (In the World)" xuất hiện trong bảng xếp hạng cuối năm 2010 và 2011 Billboard Hot 100 ở vị trí lần lượt là 47 và 40.[48][49]
"Only Girl (In the World)" ra mắt ở vị trí đầu bảng xếp hạng Digital Songs nhờ vào doanh số bán hàng trong tuần đạt 249.000 bản, trở thành ca khúc quán quân thứ 8 của Rihanna và cũng là ca khúc thứ 6 của cô ra mắt ngay tại vị trí số 1 (nhiều nhất ở cả hai thành tích so với bất kỳ nghệ sĩ nào tính thời điểm bảng xếp hạng này được trình làng vào nằm 2005).[50] Rihanna cũng kéo giãn kỷ lục nghệ sĩ có số đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng phát thanh Mainstream Top 40 (Pop Songs) nhiều nhất sau khi "Only Girl (In the World)" leo từ vị trí thứ hai sang vị trí thứ nhất vào số ngày 4 tháng 12 năm 2010, và là bài hát quán quân thứ bảy của cô.[51] Bài hát đứng thứ 65 và thứ 33 lần lượt ở bảng xếp hạng cuối năm 2011 Billboard Digital Songs và Pop Songs.[52][53] "Only Girl (In the World)" là đĩa đơn quán quân thứ 12 của Rihanna ở bảng Dance Club Songs và được xếp thứ 46 ở bảng cuối năm 2010 Billboard.[54][55] Bài hát nhận được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận đĩa 6× bạch kim với tổng doanh số bản thuần được bán ra là 3,6 triệu bản tính từ tháng 6 năm 2015.[56][57] Tại Canada, "Only Girl (In the World)" ra mắt ở vị trí thứ 65 trong tuần số ngày 25 tháng 9 năm 2010, và leo lên vị trí dẫn đầu vào tuần kế tiếp.[58] Vào số ngày 6 tháng 11 năm 2011, bài hát trở lại vị trí số một trong ba tuần liên tiếp,[59][60][61] và tiếp tục trụ hạng trong vòng 36 tuần không liên tục.[62] "Only Girl" đã xuất hiện trở lại bảng xếp hạng Canada ở vị trí thứ 50 vào số ngày 25 tháng 2 năm 2023, nhờ vào hiệu ứng của chương trình giữa hiệp Super Bowl LVII.[63]
Tại Anh Quốc và các khu vực khác
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Anh Quốc, "Only Girl (In the World)" ra mắt ở vị trí thứ 2 ở bảng UK Singles Chart vào ngày 31 tháng 10 năm 2010, với 126.000 bản được bán ra.[64][65][66] Tuy nhiên trong tuần đó, "Promise This" của Cheryl Cole cũng đã ra mắt ở vị trí đầu bảng do có doanh số cao hơn là 157.000 bản được bán ra, và cả Cole lẫn Rihanna đều là hai ca sĩ có doanh số tiêu thụ trong tuần cao nhất và cao nhì trong năm.[65][66] Sang tuần, "Only Girl" đã leo lên được vị trí số một và nắm giữ trong vòng hai tuần liên tiếp.[67][68] Bài hát trở thành đĩa đơn quán quân thứ 4 của Rihanna ở Anh Quốc, sau "Umbrella" (2007), "Take a Bow" (2008) và "Run This Town" (2009).[69] Đến tháng 12 năm 2011, "Only Girl (In the World)" trở thành bài hát thứ 108 bán được hơn 1 triệu bản thuần ở Anh Quốc, 15 đối với nghệ sĩ nữ, đầu tiên đối với Rihanna nếu tính solo và thứ 2 khi tính hợp tác. Đĩa triệu bản thứ 107 thuộc về "Love the Way You Lie" của Eminem cách đây sáu tuần, và đó cũng là bài hát mà Rihanna hợp tác với nghệ sĩ khác.[70]
Rihanna là nghệ sĩ không phải là người Anh hay là người Bắc Mỹ thứ hai bán được triệu bản, nghệ sĩ đầu tiên thuộc về ca sĩ người Đan Mạch Whigfield với bài hát năm 1994 của bà, "Saturday Night".[70] Trong thời điểm đó, một nghệ sĩ nữ khác có hai bài hát tiêu thụ được triệu bản là ca sĩ người Canada Celine Dion, nhưng sau này đã bị hai đĩa đơn triệu bản khác của Rihanna là "We Found Love" (2011) và "Diamonds" (2012) phá kỷ lục.[71] "Only Girl (In the World)" là ca khúc bán chạy thứ 19 của một nữ nghệ sĩ và là thứ 99 nếu tính mọi thời đại tại Anh Quốc.[72][73] Bài hát lần lượt là đĩa đơn bán chạy thứ 4 và thứ 68 trong năm 2010 và 2011,[74][75] và đồng thời được Công nghiệp ghi âm Anh (BPI) chứng nhận bạch kim nhờ doanh số đặt mua vượt qua 600.000 bản, và đã bán được 1.080.000 bản.[73][76] "Only Girl (In the World)" đạt vị trí số một ở bảng UK Single Downloads Chart và Singles Chart ở Scotland.[77][78]
Tại Úc, "Only Girl (In the World)" ra mắt ở vị trí số 1 trong tuần ngày 3 tháng 10 năm 2010 và đạt vị trí này trong vòng 4 tuần không liên tiếp.[79] Năm 2015, ca khúc được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) chứng nhận đĩa 7× Bạch kim.[80] Ở New Zealand, "Only Girl" gia nhập bảng xếp hạng ở vị trí đầu bảng và được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand (RIANZ) chứng nhận đĩa Bạch kim.[81][82] Tại Pháp, bài hát vươn lên hạng 2 và bán được 145.000 bản tính đến tháng 1 năm 2011.[83][84] Phía bên nước Đức, "Only Girl (In the World)" cũng leo lên được hạng 2 và được BVMI chứng nhận đĩa 5× Vàng vào năm 2023.[85][86] Đĩa đơn đã đạt vị trí quán quân ở các bảng xếp hạng của Ireland, Áo, Bỉ, Ba Lan, Ý, Romania, Hungary, Na Uy và Slovakia.[17]
Video âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Anthony Mandler là người đạo diễn cho video âm nhạc của "Only Girl (In the World)" tại một địa điểm nằm ở hướng vài giờ bên ngoài thành phố Los Angeles, và video âm nhạc được phát sóng trực tiếp vào ngày 13 tháng 10 năm 2010.[87][88] Trước khi quay phim, Rihanna đã gửi hình chụp và đoạn video tham chiếu cho một vài đạo diễn hàng đầu để hy vọng họ thiết kế ý tưởng mà cô thực sự mong muốn, nhưng đa phần những kịch bản mà họ đưa ra trông giả tạo và không ăn ý với nữ ca sĩ. Rihanna cho rằng của Mandler là phù hợp nhất, sau khi anh đã chọn ra một chùm hình hỗn tạp từ mới nhất đến cách đây 9 năm và gửi cho cô xem thử.[89] Trong quá trình quay phim, tuy nữ ca sĩ đã gặp khó khăn do nơi quay phim là chỗ cư trú của nhiều loài sâu bọ và rắn bò sát nhưng cô vẫn nghĩ rằng sản phẩm cuối cùng vẫn sẽ trông đẹp mắt.[17] Phỏng vấn với trang web JustJared.com, Rihanna đã kể lại quá trình quay video ở "khung cảnh rộng lớn" và lựa chọn chủ đề đơn giản rằng:[90]
"Đó là một cảnh quan thực sự rất đẹp ở những nơi rất rất rất điên rồ thế này. Chúng tôi đã chọn quay ở những phong cảnh mà chúng tôi đã tìm thấy nằm ở hướng vài giờ bên ngoài LA. Nơi đó trông không thật lắm. Trông thật là giả tạo, giống như những bức bưu thiếp đính kèm hình đồi núi xinh đẹp vậy. Mặc dù tụi tôi đã chịu nắng chói vài hôm, nhưng thực sự như vậy mới ăn hợp cả bản chất của video. Mà cũng phải nói, video chỉ cần chiếu những vùng đất rộng lớn và chỉ có một người duy nhất ở đó là tôi thôi, cũng đủ rồi."[90]
Nội dung video diễn tả lại sự vô tư buông thả trong lời bài hát và hầu như không có cốt truyện, nhằm ám chỉ Rihanna là "cô gái duy nhất trên thế giới" đang hát và không có bất cứ một bóng người nào.[90] Đa phần hình ảnh của Rihanna trong video đều là đi nghênh ngang vòng quanh những vùng đồi, mặc áo len tay dài bằng vải nỉ và váy ngắn, rồi đến cảnh cô diện áo ngực nịt khung cùng váy bông hoa ngắn, và cuối cùng là cô mặc một bộ áo ngực trắng quần ngắn có váy phủ ngoài.[87] Cây viết đánh giá Jason Lipshutz bên Billboard mô tả những đoạn khác trong video gồm có: cảnh xung quanh Rihanna là những bong bóng nhiều màu sắc, cảnh nữ ca sĩ ngồi trên một chiếc xích đu treo giữa trời,[d] hoặc nằm lên thảm hoa và sau đó nhảy múa trước một cái cây đầy đèn sáng nhấp nháy, khắc hoạ thêm cho hình ảnh siêu thực.[92] Tom Breihan thì để ý đến cảnh nữ ca sĩ vừa hát đoạn bridge vừa ngồi ở trên đỉnh một tòa tháp tập thể thao môn leo trèo vượt địa hình lơ lửng giữa không trung kỳ lạ. Anh cho rằng toàn bộ sự việc dường như diễn ra ở một vùng đất mộng mơ giả tưởng nào đó.[14] Rihanna tiếp tục bảo với JustJared.com rằng các cảnh quay khi đó tuy điên rồ và đáng sợ thật nhưng vẫn rất vui.[93]
Người hâm mộ của Rihanna tâm đắc cảnh tượng vui vẻ và thong thả của nữ ca sĩ trong video, còn các cây viết đánh giá thì để ý đến vẻ nữ tính trong đó.[93] Tanner Stransky của Entertainment Weekly khen ngợi khung cảnh đơn giản của video, và bảo rằng "[điều đó] giống như Rihanna đang trò chuyện với bạn trực diện vậy. Bạn chính là người xem, và cô ấy là người duy nhất của bạn đang đứng giữa cảnh vật cuồn cuộn, đẹp đẽ và bát ngát như nuốt chửng cả thế giới. Đó là hiệu ứng khiến cho bạn tập trung thẳng vào [Rihanna], và cô ấy đang ẩn mình trong những bộ trang phục quyến rũ."[90] Joyce Lee từ CBS đã viết, "Rihanna đã chính thức thoát khỏi những ngày tháng Rated R ảm đạm và trở nên nữ tính hơn, vui vẻ hơn với video âm nhạc mới."[94] Ngòi bút Seth Sommerfield viết cho Spin đã lặp lại lời bình của Lee và ca ngợi video âm nhạc thật "kỳ quái [và] đẹp đẽ".[95] Còn Brittany Talarico bên tạp chí OK! thì khen ngợi nỗ lực chuyển chủ đề của Rihanna và bảo rằng, "Tạm biệt gai và da và xin chào nơ và hoa! Rihanna trông giống như một người đẹp bơ vơ trong thước phim ca nhạc mới nhất của cô ấy với bản hit đầy lạc quan 'Only Girl (In the World)'. Cô ấy đã thay đổi vẻ ngoài nữ tính, gai góc của mình để có được vẻ ngoài mềm mại hơn - và được xoã mái tóc đỏ rực của mình xuống một cách thư thái!"[96] Cuối năm 2010, trang VH1 xếp "Only Girl (In the World)" ở vị trí thứ 13 trong danh sách 40 video âm nhạc hàng đầu của năm.[97] Từ thời điểm ra mắt "Umbrella" đến cuối tháng 1 năm 2016, Natalie Weiner đến từ Billboard đã chọn "Only Girl (In the World)" làm 11 video âm nhạc xuất sắc nhất của Rihanna.[98]
Sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]"Only Girl (In the World)" xuất hiện trong trò chơi điện tử Just Dance 3[e] và trong tựa trò chơi hành động phiêu lưu Grand Theft Auto V ở tính năng đài phát thanh Non-Stop-Pop FM khi người chơi sử dụng phương tiện.[100] Ca khúc cũng có mặt trong bộ phim hoạt hình Hành trình trở về năm 2015 của DreamWorks Animation.[101][102]
Biểu diễn trực tiếp và hát lại
[sửa | sửa mã nguồn]Rihanna lần đầu biểu diễn "Only Girl (In the World)" và phiên bản solo của "What's My Name?" trên Saturday Night Live tại thành phố New York vào ngày 30 tháng 10 năm 2010.[103][104] Sang ngày kế tiếp, cô bay đến Luân Đôn để biểu diễn "Only Girl" cho The X Factor.[105] Ngày 7 tháng 11, Rihanna biểu diễn bài hát tại lễ trao giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2010 tại Madrid.[106] Hai ngày tiếp theo, nữ ca sĩ người Barbados mặc bộ bikini họa tiết bông hoa, mang đôi ủng và để tóc thắt bím đuôi heo màu đỏ trình diễn "Only Girl (In the World)" tại The X Factor phiên bản nước Ý.[107] Hôm sau, cô lại tiếp tục sang Pháp để biểu diễn ca khúc cho Le Grand Journal, trên sân khấu toàn là bóng bay màu trắng.[108] Rihanna trở lại Luân Đôn vào ngày 11 tháng 11 để ghi hình cho cuộc phỏng vấn cho chương trình trò chuyện The Graham Norton Show và hát "Only Girl (In the World)".[109] Trong quá trình quảng bá album Loud, vào ngày 17 tháng 11, nữ ca sĩ người Barbados đã biểu diễn "Only Girl" và "What's My Name?" ở chương trình Good Morning America phát sóng trên kênh ABC.[110] Rihanna mở màn giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2010 hát liên khúc medley với ca khúc trong album Loud. Cô bắt đầu tiết mục bằng cách hát chay "Love the Way You Lie (Part II)" và ngồi trên cây đèn phát sáng và phần dưới là "một cánh đồng cỏ úa màu xám."[111] Rihanna sau đó nhảy xuống và biểu diễn phiên bản solo của "What's My Name?" rồi đến bản ngắn của "Only Girl (In the World)".[111] Theo Mawuse Ziegbe biên tập cho MTV News, nữ ca sĩ đã "khởi động chủ đề hòn đảo" lúc những người đánh trống mặc trang phục bộ lạc vây quanh cô.[111]
Rihanna biểu diễn phiên bản ngắn "Only Girl (In the World)" tại lễ trao giải Brit lần thứ 31 vào ngày 15 tháng 2 năm 2011,[112] liên khúc với hai đĩa đơn khác trong album Loud: "S&M" và "What's My Name?".[113] Ban đầu Rihanna dự định chỉ biểu diễn mỗi "S&M" trùng ngày ra mắt tại Anh Quốc, nhưng cô đành phải hợp tác theo Brit Awards là "giảm bớt ca từ liên quan đến tình dục trong lời bài hát". Hôm đó, nữ ca sĩ người Barbados đã tức giận vì bị yêu cầu thay đổi tiết mục và biểu diễn một bài hát khác. Tuy nhiên, Rihanna cũng đã đồng ý thay đổi bởi vì tập đoàn Brit Awards muốn tránh những lời than phiền tương tự như buổi công chiếu chung kết The X Factor loạt thứ bảy vào ngày 11 tháng 12 năm 2010.[114][115] Rihanna trở thành nghệ sĩ khách mời tại NBA All-Star Game vào ngày 20 tháng 2 năm 2011 và biểu diễn liên khúc "Umbrella", "Only Girl (In the World)", "Rude Boy", "What's My Name?" (cùng Drake) và "All of the Lights" (cùng Kanye West).[116] Rihanna đã trình diễn "Only Girl (In the World)", "California King Bed", "What's My Name?" và "S&M" ở loạt "Toyota Concert Series" của chương trình Today phát sóng trên đài NBC tại New York.[117][118] Ở chuyến lưu diễn Last Girl on Earth tại chặng Úc vào tháng 2 năm 2011, Rihanna bổ sung "Only Girl (In the World)" cùng với các bài hát khác trong Loud vào trong danh sách tiết mục.[119] "Only Girl" còn xuất hiện trong chuyến lưu diễn Loud,[120] 777[121] và Diamonds World Tour,[122] và là tiết mục mở đầu của nữ ca sĩ người Barbados tại Radio 1's Hackney Weekend vào ngày 24 tháng 6 năm 2012.[123] Cô cũng biểu diễn bài hát ở Giải Video âm nhạc của MTV năm 2016[124] và đưa bài hát vào trong chương trình giữa hiệp của Super Bowl LVII.[125]
Năm 2010, nhóm nhạc Anh Quốc One Direction đã hát lại "Only Girl (In the World)" tại The X Factor. Nữ ca sĩ người Mỹ Ariana Grande đã thể hiện ca khúc "theo phong cách cổ điển cực kỳ Broadway" tại Skating/Gymnastics Spectacular vào năm 2011.[14] Katy Perry đã cover lại "Only Girl (In the World)" trong phần liên khúc acoustic với "Whip My Hair" của Willow Smith ở chuyến lưu diễn California Dreams Tour (2011).[126] Ellie Goulding đã cover ca khúc trong buổi góp mặt của cô ở Radio 1's Live Lounge,[127] và phần thu âm được phát hành trong mặt B đĩa đơn "Lights" của cô.[128] Nhóm nhạc thể loại thể nghiệm Xiu Xiu đã trình diễn ca khúc ở đĩa đơn 7 inch vào năm 2011.[129] Năm 2019, Kelly Clarkson đã biểu diễn "Only Girl (In the World)" trong chương trình trò chuyện ban ngày The Kelly Clarkson Show của cô.[130]
Danh sách ca khúc
[sửa | sửa mã nguồn]
|
|
Đội ngũ thực hiện
[sửa | sửa mã nguồn]Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Loud, Def Jam Recordings và SRP Records.[11]
- Thu âm và phối khí
- Thu âm tại Roc the Mic Studios ở New York, Westlake Recording Studios ở Los Angeles, California và The Bunker Studios ở Paris, Pháp.
- Phối khí tại The Bunker Studios ở Paris, Pháp và The Ninja Beat Club ở Atlanta.
- Đội ngũ
|
|
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Lễ trao giải | Hạng mục | Kết quả | Chú thích |
---|---|---|---|---|
2011 | Giải Grammy lần thứ 53 | Thu âm nhạc dance/điện tử xuất sắc nhất | Đoạt giải | [136] |
Giải thưởng Âm nhạc Dance Quốc tế | Bài hát Pop Dance xuất sắc nhất | Đề cử | [137] | |
Bài hát R&B/Urban Dance xuất sắc nhất | Đoạt giải | [137] | ||
Giải thưởng Âm nhạc Soul Train 2011 | Màn trình diễn nhạc Dance xuất sắc nhất | Đề cử | [138] | |
Giải thưởng Âm nhạc Pop ASCAP | Bài hát được biểu diễn nhiều nhất | Đoạt giải | [139] | |
2012 | Đoạt giải | [140] | ||
Giải BMI | Giải BMI Pop | Đoạt giải | [141] |
Bảng xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng hàng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]
|
Chứng nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[80] | 7× Bạch kim | 490.000^ |
Bỉ (BEA)[228] | Bạch kim | 30.000* |
Brasil (Pro-Música Brasil)[229] | Kim cương | 250.000 |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[230] | 2× Bạch kim | 180.000 |
Đức (BVMI)[86] | 5× Vàng | 1.250.000 |
Ý (FIMI)[231] | Bạch kim | 30.000* |
New Zealand (RMNZ)[82] | Bạch kim | 15.000* |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[232] | Bạch kim | 60.000 |
Thụy Điển (GLF)[233] | 4× Bạch kim | 80.000 |
Thụy Sĩ (IFPI)[234] | 2× Bạch kim | 60.000^ |
Anh Quốc (BPI)[235] | 3× Bạch kim | 1.800.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[56] | 7× Bạch kim | 7.000.000 |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Lịch sử phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Khu vực | Ngày | Định dạng | Phiên bản | Hãng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Nhiều[f] | 10 tháng 9 năm 2010 | Tải kỹ thuật số | Gốc | Island Def Jam | |
Nhiều[g] | 13 tháng 9 năm 2010 | ||||
Hoa Kỳ | 21 tháng 9 năm 2010 | Đài phát thanh hit đương đại Đài phát thanh rhythmic đương đại |
[25][26] | ||
Anh Quốc | 25 tháng 10 năm 2010 | CD |
|
Mercury | [134] |
Tải kỹ thuật số | Gốc | [236] |
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tạm dịch: "Hãy cho em cưỡi lên anh/ Ôi, anh yêu, hãy đưa em lên tận mây xanh."
- ^ Tạm dịch: "Em chỉ muốn anh khiến em cảm thấy như em là người con gái duy nhất trên thế giới này/ Như em là một người duy nhất mà anh đã từng yêu/ Như em là người duy nhất có thể thấu hiểu tâm can của anh/ Người con gái duy nhất trên đời này."
- ^ Tạm dịch: "Anh yêu, để em cho anh biết mọi bí mật mà em hằng che giấu/ Anh được phép "tiến vào"/ Một khi đã tiến đến, anh chẳng thể thoái lui/ Hãy trở nên tù nhân của em đêm nay nhé."
- ^ Một đoạn phim ngắn hậu trường có thời lượng 2:23 cho thấy đoàn quay phim đã sử dụng xe cần cẩu để thực hiện cảnh quay xích đu.[91]
- ^ Độc quyền với bản mua tại Target/Zellers.[99]
- ^ Các quốc gia phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2010: Úc, Đan Mạch, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, New Zealand.
- ^ Các quốc gia phát hành vào ngày 13 tháng 9 năm 2010: Bỉ, Canada, Phần Lan, Pháp, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Rodriguez, Jayson (ngày 22 tháng 7 năm 2009). “Ne-Yo Won't Write A 'Chris Brown Bash Song' For Rihanna” [Ne-Yo sẽ không viết 'Bài hát bày tỏ ghét bỏ Chris Brown' cho Rihanna] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ McCormick, Neil (ngày 20 tháng 11 năm 2009). “Rihanna: Rated R, pop CD of the week” [Rihanna: Rated R, đĩa CD nhạc pop của tuần]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ Wood, Mikael (ngày 2 tháng 12 năm 2009). “Rihanna: Rated R – CD Reviews” [Rihanna: Rated R – Đánh giá đĩa CD]. The Phoenix (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ Greenblatt, Leah (ngày 18 tháng 11 năm 2009). “Rated R (2009)” [Rated R (2009)]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ Powers, Ann (ngày 23 tháng 11 năm 2009). “Album review: Rihanna's 'Rated R'” [Đánh giá album: 'Rated R' của Rihanna]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ Kaufman, Gil (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Reveals Title of New Album” [Rihanna tiết lộ tựa đề album mới] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Rihanna's Next Album To Rival 'Thriller'?” [Album tiếp theo của Rihanna sắp sửa cạnh tranh với 'Thriller'?] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 19 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
- ^ Jonah, Weiner (ngày 9 tháng 12 năm 2010). “Rihanna Gets 'Loud' With Disc of High-Energy Party Jams” [Rihanna sở hữu chiếc đĩa ‘Loud’ toàn bài hát tiệc tùng đầy năng lượng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
- ^ Eells, Josh (ngày 14 tháng 4 năm 2011). “Rihanna, Queen of Pain” [Rihanna, Nữ hoàng của thống khổ]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
- ^ Ketchum III, William (ngày 3 tháng 1 năm 2012). “Sak Pase Reveals Queen's Influence On "Watch The Throne" Tracks, Rihanna's "Man Down" Controversy” [Sak Pase tiết lộ tầm ảnh hưởng của Queen đối với các ca khúc "Watch The Throne", tranh cãi trong bài hát "Man Down" của Rihanna]. HipHopDX (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d Rihanna (ngày 12 tháng 11 năm 2010). Loud [Loud] (Phần bìa trong) (bằng tiếng Anh). Def Jam Recordings, SRP Records.
- ^ a b Dinh, James (ngày 3 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Set To Premiere 'Only Girl (In The World)'” [Rihanna chuẩn bị ra mắt 'Only Girl (In The World)'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Fresh, Mikey (ngày 14 tháng 2 năm 2011). “Grammy Recap: Stargate Talks Rihanna's 'Only Girl (In The World)' Winning 'Best Dance Recording'” [Tóm tắt giải Grammy: Stargate nói về Rihanna 'Only Girl (In The World)' giành giải 'Bản thu âm nhạc dance hay nhất']. Vibe (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c d e f g h i j Breihan, Tom (ngày 7 tháng 8 năm 2023). “The Number Ones: Rihanna's "Only Girl (In The World)"” [Các bài hát số một: “Only Girl (In The World)” của Rihanna]. Stereogum (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ Roberts, Soraya (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl (In the World),' first single off new album, 'Loud,' asks new man to love her” [Đĩa đơn đầu tiên "Only Girl (In the World)" trong album mới của Rihanna, "Loud", ngỏ lời người đàn ông mới phải yêu cô ấy]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Rihanna's 'Only Girl (In the World),' first single off new album, 'Loud,' asks new man to love her” [Đĩa đơn đầu tiên "Only Girl (In the World)" trong album mới của Rihanna, "Loud", ngỏ lời người đàn ông mới phải yêu cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 7 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c Oliver 2011, tr. 192.
- ^ Oliver 2011, tr. 209.
- ^ “Rihanna's Full Album List, Ranked” [Danh sách album đầu của Rihanna, được xếp hạng]. Essence (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2024.
- ^ Seabrook 2015, tr. 217.
- ^ Oliver 2011, tr. 215.
- ^ Rihanna [@rihanna] (ngày 31 tháng 8 năm 2010). “@RyanSeacrest Soon! In less than 10 dayz ima send u sumn special, and ur gonna play it OVER and OVER, like I'm the only girl in the world!” [@RyanSeacrest Sẽ sớm có! Chưa đầy 10 ngày nữa tôi sẽ gửi cho các bạn một bài hát đặc biệt và bạn sẽ nghe ĐI nghe LẠI nó, như thể tôi là cô gái duy nhất trên thế giới vậy!] (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024 – qua Twitter.
- ^ a b "Only Girl (In the World)" được phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số vào ngày 10 tháng 9 năm 2010:
- Úc: “Only Girl (In the World) – Single – Australia” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Úc] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Đan Mạch: “Only Girl (In the World) – Single – Denmark” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Đan Mạch] (bằng tiếng Đan Mạch). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Đức: “Only Girl (In the World) – Single – Germany” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Đức] (bằng tiếng Đức). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
- Ý: “Only Girl (In the World) – Single – Italy” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Ý] (bằng tiếng Ý). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
- Nhật Bản: “Only Girl (In the World) – Single – Japan” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2024.
- Hà Lan: “Only Girl (In the World) – Single – Netherlands” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Hà Lan] (bằng tiếng Hà Lan). 7digital. ngày 10 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- New Zealand: “Only Girl (In the World) – Single – New Zealand” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – New Zealand] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- ^ a b "Only Girl (In the World)" được phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số vào ngày 13 tháng 9 năm 2010:
- Bỉ: “Only Girl (In the World) – Single – Belgium” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Bỉ] (bằng tiếng Đức). 7digital. ngày 13 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Canada: “Only Girl (In the World) – Single – Canada” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Canada] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Phần Lan: “Only Girl (In the World) – Single – Finland” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Phần Lan] (bằng tiếng Phần Lan). 7digital. ngày 13 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Pháp: “Only Girl (In the World) – Single – France” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Pháp] (bằng tiếng Pháp). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Na Uy: “Only Girl (In the World) – Single – Norway” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Na Uy] (bằng tiếng Anh). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Bồ Đào Nha: “Only Girl (In the World) – Single – Portugal” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Bồ Đào Nha] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Tây Ban Nha: “Only Girl (In the World) – Single – Spain” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Tây Ban Nha] (bằng tiếng Tây Ban Nha). 7digital. ngày 13 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Thụy Điển: “Only Girl (In the World) – Single – Sweden” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Thụy Điển] (bằng tiếng Anh). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Thụy Sĩ: “Only Girl (In the World) – Single – Switzerland” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Thụy Sĩ] (bằng tiếng Đức). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- Hoa Kỳ: “Only Girl (In The World) – Single – United States” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- ^ a b “Radio & Records – Going For Adds – CHR/Top 40 – Week Of: September 21, 2010” [Radio & Records – Sắp lên sóng – CHR/Top 40 – Tuần: 21 tháng 9 năm 2010]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- ^ a b “Radio & Records – Going For Adds – Rhythmic – Week Of: September 21, 2010” [Radio & Records – Sắp lên sóng – Rhythmic – Tuần: 21 tháng 9 năm 2010]. Radio & Records (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- ^ Carroll, Shirea L. (ngày 17 tháng 12 năm 2010). “2010: The Year That R&B Turned into Euro-Dance Songs” [2010: Năm mà R&B trở thành những ca khúc Euro-Dance]. Essence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Digital Sheet Music, Rihanna 'Only Girl (In the World)'” [Bản phổ nhạc kỹ thuật số, Rihanna 'Only Girl (In the World)']. Musicnotes (bằng tiếng Anh). 2010. MN0087169 (số sản phẩm). MN0087169. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c d Wete, Brad (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna released new single 'Only Girl (In The World)', gets us excited about upcoming album” [Rihanna phát hành đĩa đơn mới 'Only Girl (In The World)', khiến chúng ta háo hức về album sắp tới]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c d e Dinh, James (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Debuts New Single, 'Only Girl (In The World)' Club banger premiered on Ryan Seacrest's radio show Tuesday morning” [Rihanna ra mắt đĩa đơn mới, bài hát khuấy đảo câu lạc bộ 'Only Girl (In The World)' được công chiếu trên chương trình radio của Ryan Seacrest vào sáng thứ Ba] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Lamb, Bill. “Rihanna - "Only Girl (In the World)"” [Rihanna - "Only Girl (In the World)"] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Daw, Robbie (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Premieres Single 'Only Girl (In The World)', Reveals New Album Title” [Rihanna ra mắt đĩa đơn 'Only Girl (In The World)', tiết lộ tên album mới] (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Herrera, Monica (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Reveals 'Loud' Album Title, 'Only Girl' Single” [Rihanna tiết lộ tựa đề album 'Loud', đĩa đơn 'Only Girl']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Levine, Nick (ngày 25 tháng 10 năm 2010). “Rihanna: 'Only Girl (In The World)'” [Rihanna: 'Only Girl (In The World)'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b McAlpine, Fraser (ngày 23 tháng 10 năm 2010). “Rihanna – 'Only Girl (In The World)'” [Rihanna – 'Only Girl (In The World)'] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Govan 2011, tr. 169.
- ^ Kennedy, Gerrick D. (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Rihanna gets 'Loud' with new disc, returns to dance roots on album's first single” [Rihanna tung 'Loud' với đĩa mới, trở lại phong cách dance với đĩa đơn đầu tiên của album]. Los Angeles Times (Blog) (bằng tiếng Anh). California Times. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Soderberg, Brandon (ngày 23 tháng 11 năm 2010). “Review Track: "Only Girl (In the World)" – Rihanna” [Đánh giá bài hát: "Only Girl (In the World)" – Rihanna]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
- ^ Manning, James; Levine, Nick (ngày 14 tháng 5 năm 2015). “The 20 best Rihanna songs” [20 bài hát xuất sắc nhất của Rihanna]. Time Out (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ “Loveeeeeee Songs: Rihanna's 52 Singles, Ranked” [Các bài hát được yêuuuuuuu: 52 đĩa đơn của Rihanna, được xếp hạng]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ Dolan, Jon; và đồng nghiệp (ngày 20 tháng 2 năm 2018). “Rihanna's 30 Greatest Songs, Ranked” [30 bài hát xuất sắc nhất của Rihanna, được xếp hạng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ Petridis, Alexis (ngày 1 tháng 4 năm 2021). “Rihanna's 30 greatest singles – ranked!” [30 đĩa đơn xuất sắc nhất của Rihanna – được xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ Gracie, Bianca (ngày 29 tháng 6 năm 2021). “The Best Rihanna Songs, Ranked” [Bài hát xuất sắc nhất của Rihanna, được xếp hạng]. Uproxx (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ Brocklehurst, Harrison (ngày 11 tháng 1 năm 2022). “A considered ranking of Rihanna's 50 greatest singles of all time” [Bảng xếp hạng được coi là 50 đĩa đơn hay nhất mọi thời đại của Rihanna]. The Tab (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ Masley, Ed (ngày 10 tháng 2 năm 2023). “The 20 best Rihanna songs ever, definitively ranked (from 'We Found Love' to 'Umbrella')” [20 bài hát xuất sắc nhất của Rihanna từ trước đến giờ, được xếp hạng (từ 'We Found Love' cho tới 'Umbrella')]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.
- ^ “Billboard Hot 100 – Week of September 25, 2010” [Billboard Hot 100 – Tuần ngày 25 tháng 9 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c d Pietroluongo, Silvio (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl' Rebounds to No. 1 on Hot 100” ['Only Girl' của Rihanna trở lại vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Hot 100 Songs — Year End 2010” [Bài hát Hot 100 — Cuối năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Hot 100 Songs — Year End 2011” [Bài hát Hot 100 — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 22 tháng 9 năm 2010). “Bruno Mars Lands Atop Hot 100, Rihanna Roars Into Top 10” [Bruno Mars lọt top Hot 100, Rihanna lọt vào top 10]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Breaks Pop Songs No. 1 Record” [Rihanna phá kỷ lục số 1 bên Pop Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Digital Songs — Year End 2011” [Digital Songs — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Pop Songs — Year End 2011” [Pop Songs — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b "Rihanna Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Dance/Club Songs — Year End 2010” [Dance/Club Songs — Cuối năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Rihanna – Only Girl (In the World)” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ Trust, Gary (ngày 23 tháng 6 năm 2015). “Ask Billboard: Rihanna's Best-Selling Songs & Albums” [Hỏi Billboard: Bài hát và Album bán chạy nhất của Rihanna]. Billboard (bằng tiếng Anh). Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b "Rihanna Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Billboard Canadian Hot 100 – Week of November 6, 2010” [Billboard Canadian Hot 100 – Tuần ngày 6 tháng 11 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Billboard Canadian Hot 100 – Week of November 13, 2010” [Billboard Canadian Hot 100 – Tuần ngày 13 tháng 11 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Billboard Canadian Hot 100 – Week of November 20, 2010” [Billboard Canadian Hot 100 – Tuần ngày 20 tháng 11 năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rihanna Chart History - Billboard Canadian Hot 100” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna - Billboard Canadian Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Billboard Canadian Hot 100 – Week of February 25, 2023” [Billboard Canadian Hot 100 – Tuần ngày 25 tháng 2 năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Official Singles Chart Top 40. 31 October 2010 – 06 November 2010” [Bảng xếp hạng đĩa đơn Official Top 40. ngày 31 tháng 10 năm 2010 – ngày 6 tháng 11 năm 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 31 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Cheryl Cole's Promise This beats Rihanna to number one” [Promise This của Cheryl Cole đánh bại Rihanna để giành vị trí số một] (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 1 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Cheryl Cole beats Rihanna to UK singles chart Number One” [Cheryl Cole đánh bại Rihanna để giành vị trí số một trên bảng xếp hạng đĩa đơn Anh]. NME (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Official Singles Chart Top 40. 07 November 2010 – 13 November 2010” [Bảng xếp hạng đĩa đơn Official Top 40. ngày 7 tháng 11 năm 2010 – ngày 13 tháng 11 năm 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 7 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Official Singles Chart Top 40. 14 November 2010 – 20 November 2010” [Bảng xếp hạng đĩa đơn Official Top 40. ngày 14 tháng 11 năm 2010 – ngày 20 tháng 11 năm 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 14 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rihanna makes history in UK chart” [Rihanna làm nên lịch sử trên bảng xếp hạng Anh] (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 9 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Jones, Alan (ngày 5 tháng 12 năm 2011). “Rihanna scores first million-selling UK solo single” [Rihanna đạt đĩa đơn solo đầu tiên bán được triệu bản ở Anh]. Music Week (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Adele and Rihanna score UK's latest million selling singles” [Adele và Rihanna ghi điểm đĩa đơn bán chạy hàng triệu bản mới nhất tại Vương quốc Anh] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 7 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2015.
- ^ Lane, Daniel (ngày 8 tháng 3 năm 2014). “The Official Top 40 Biggest Selling Singles Of All Time By Female Artists revealed!” [Top 40 đĩa đơn bán chạy nhất Official mọi thời đại của nữ nghệ sĩ được tiết lộ!] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c “Get Lucky becomes one of the UK's biggest selling singles of all-time!” [Get Lucky trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại ở Vương quốc Anh!] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 27 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “End of Year Singles Chart Top 100 — 2010” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm Top 100 — 2010] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “End of Year Singles Chart Top 100 — 2011” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm Top 100 — 2011] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “BPI Certified Awards Search” [Tìm kiếm giải thưởng được chứng nhận BPI]. British Phonographic Industry (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Official Singles Downloads Chart Top 100” [Bảng xếp hạng tải xuống đĩa đơn Official Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 7 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b "Australian-charts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
- ^ a b "Charts.nz – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Latest Gold / Platinum Singles” (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 21 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
- ^ a b "Lescharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ Hamard, Jonathan (ngày 25 tháng 1 năm 2011). “Bilan du marché du disque en France : ventes, chiffres et évolution” [Sự cân bằng của thị trường âm nhạc ở Pháp: số liệu và xu hướng bán hàng] (bằng tiếng Pháp). Charts in France. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
- ^ a b "Musicline.de – Rihanna Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Gold-/Platin-Datenbank (Rihanna; 'Only Girl (In the World)')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Roberts, Soraya (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl (In the World)' video, off 'Loud' album, shows underwear-clad singer swinging” [Video 'Only Girl (In the World)' của Rihanna, phát hành trước album 'Loud', cho thấy ca sĩ mặc đồ lót đung đưa]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Rihanna (ngày 13 tháng 10 năm 2010). Rihanna - Only Girl (In The World) [Rihanna - Cô gái duy nhất (trên thế giới)] (Video âm nhạc) (bằng tiếng Anh). California, Hoa Kỳ: YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Oliver 2011, tr. 192-193.
- ^ a b c d Stransky, Tanner (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Debuts 'Only Girl (In The World)' Video: Finally, run RiRi returns” [Rihanna ra mắt video 'Only Girl (In The World)': Cuối cùng, RiRi cũng trở lại]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Rihanna (2010). Making of the "Only Girl (In The World)" Music Video [Hậu trường thực hiện video ca nhạc của "Only Girl (In The World)"] (SD AVC/H.264) (bằng tiếng Anh). California, Hoa Kỳ: Def Jam Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2024.
- ^ Lipshutz, Jason (ngày 13 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Frolics Alone In 'Only Girl (In The World)' Video” [Rihanna vui đùa một mình trong video 'Only Girl (In The World)']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b Oliver 2011, tr. 193.
- ^ Lee, Joyce (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Rhianna "Only Girl (In The World)" Video Flaunts Singer's Girly Side” [Video "Only Girl (In The World)" của Rhianna khoe khía cạnh nữ tính của ca sĩ] (bằng tiếng Anh). CBS. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Sommerfield, Seth (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Rihanna on New Music: 'More Than Racy'” [Rihanna nói về âm nhạc mới: 'Ngất ngây còn hơn con gà tây']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Talarico, Brittany (ngày 13 tháng 10 năm 2010). “Rihanna Debuts 'Only Girl (In The World)' Video” [Rihanna ra mắt video 'Only Girl (In The World)']. OK! (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “VH1's Top 40 Music Videos Of 2010 [Complete List]” [Top 40 video âm nhạc của năm 2010 theo VH1 (danh sách đầy đủ)] (bằng tiếng Anh). VH1. ngày 17 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2024.
- ^ Weiner, Natalie (ngày 28 tháng 1 năm 2016). “Rihanna's 11 Best Videos: From 'Umbrella' to 'BBHMM'” [11 video âm nhạc xuất sắc nhất của Rihanna: Từ ‘Umbrella’ đến ‘BBHMM’]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
- ^ “SJDZ41 - Just Dance 3: Target/Zellers Exclusive Edition” [SJDZ41 - Just Dance 3: Phiên bản độc quyền của Target/Zellers] (bằng tiếng Anh). GameTDB. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ Langshaw, Mark (ngày 24 tháng 8 năm 2013). “'Grand Theft Auto 5' soundtrack features Muse, Snoop Dogg” [Nhạc trò chơi 'Grand Theft Auto 5' có sự góp mặt của Muse, Snoop Dogg] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ Dunlap, Kelley (ngày 25 tháng 2 năm 2015). “Rihanna Serves Vocals On New Single "Towards The Sun"” [Rihanna góp giọng trong đĩa đơn mới "Towards The Sun"] (bằng tiếng Anh). BuzzFeed. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Kang, Matthew (ngày 24 tháng 10 năm 2022). “Rihanna: 9 Movies Where You've Heard Her Songs” [Rihanna: 9 bộ phim bạn từng nghe bài hát của cô ấy] (bằng tiếng Anh). MovieWeb. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ Vick, Megan (ngày 1 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Rocks 'SNL' with 'Shy Ronnie' Video, Performances” [Rihanna khuấy động 'SNL' với video và màn trình diễn 'Shy Ronnie']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Lazerine, Devin (ngày 30 tháng 10 năm 2010). “Video: Rihanna Performs on 'SNL'” [Video: Rihanna biểu diễn trên 'SNL']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Lazerine, Devin (ngày 31 tháng 10 năm 2010). “Video: Rihanna Performs on 'X Factor'” [Video: Rihanna biểu diễn tại 'X Factor']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Izundu, Chi Chi (ngày 8 tháng 11 năm 2010). “Newsbeat goes backstage at MTV Europe Music Awards” [Newsbeat vào hậu trường Giải thưởng Âm nhạc châu Âu của MTV] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Lazerine, Devin (ngày 9 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Heats Up Italy's 'X Factor'” [Rihanna hâm nóng 'X Factor' của Ý]. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Lazerine, Devin (ngày 10 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Heats Performs 'Only Girl' on 'Le Grand Journal'” [Rihanna Heats biểu diễn 'Only Girl' ở 'Le Grand Journal']. Rap-Up (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Graham Norton, Colin Farrell, Daniel Radcliffe, Rihanna, Rhod Gilbert (ngày 12 tháng 11 năm 2010). The Graham Norton Show, Season 8, Episode 4 [The Graham Norton Show, Mùa 8, Tập 4] (bằng tiếng Anh). Luân Đôn, Vương quốc Anh: BBC One.
- ^ Gilmore, Story (ngày 17 tháng 11 năm 2010). “Video: Rihanna Performs "Only Girl" And "What's My Name" On GMA” [Video: Rihanna biểu diễn “Only Girl” và “What’s My Name” trên chương trình GMA]. Neon Limelight (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ a b c Ziegbe, Mawuse (ngày 21 tháng 11 năm 2010). “Rihanna Opens American Music Awards With Island Flavor” [Rihanna mở màn giải thưởng Âm nhạc Mỹ với Island Flavor] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rihanna's Top Ten Moments In 2011” [Mười khoảnh khắc đẹp nhất của Rihanna năm 2011] (bằng tiếng Anh). Capital FM. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Fullerton, Jamie (ngày 15 tháng 2 năm 2011). “Rihanna and Cee Lo Green triumph at the Brit Awards” [Rihanna và Cee Lo Green chiến thắng tại Brit Awards]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Love, Ryan (ngày 11 tháng 2 năm 2011). “Rihanna 'plans raunchy Brits performance'” [Rihanna 'lên kế hoạch biểu diễn khiêu dâm ở Anh'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ Sperling, Daniel (ngày 13 tháng 2 năm 2011). “Rihanna 'fuming' over Brit Award censorship” [Rihanna 'lên cơn thịnh nộ' vì kiểm duyệt giải Brit] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Blanco, Alvin (ngày 20 tháng 2 năm 2011). “Rihanna, Drake And Kanye Rock NBA All-Star Halftime Show” [Rihanna, Drake và Kayne khuynh đảo chương trình nghỉ giữa hiệp NBA All-Star] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2024.
- ^ “2011 Toyota Concert Series” [Chuỗi hòa nhạc Toyota 2011]. Today (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Vĩnh Ngọc (ngày 28 tháng 5 năm 2011). “Rihanna khoe vẻ quyến rũ với tóc đỏ”. Dân Trí. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ F, Matty (ngày 26 tháng 2 năm 2011). “Rihanna Wows Brisbane With Last Girl On Earth Gig” [Rihanna gây ấn tượng mạnh với Brisbane với buổi biểu diễn Last Girl On Earth] (bằng tiếng Anh). Fox FM. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
- ^ Loud Tour Live at the O2 [Loud Tour Trực tiếp tại O2] (DVD, Blu-ray) (bằng tiếng Anh). Def Jam Recordings, SRP Records. ngày 13 tháng 12 năm 2012.
- ^ Ramirez, Erika (ngày 18 tháng 11 năm 2012). “Rihanna's 777 Tour Diary: Day Four, Paris” [Nhật ký chuyến lưu diễn 777 của Rihanna: Ngày thứ tư, Paris]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Harrington, Jim (ngày 6 tháng 4 năm 2013). “Setlist: Rihanna in San Jose” [Danh sách biểu diễn: Rihanna ở San Jose]. San Jose Mercury News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Set List on Main Stage on 24 Jun 2012 at Hackney Marshes” [Danh sách bài hát trên sân khấu chính vào ngày 24 tháng 6 năm 2012 tại Hackney Marshes] (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 24 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Lozano, Kevin; Minsker, Evan (ngày 29 tháng 8 năm 2016). “MTV VMA 2016: Watch Rihanna Perform Four Career-Spanning Medleys” [MTV VMA 2016: Xem Rihanna biểu diễn bốn liên khúc kéo dài sự nghiệp]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2023.
- ^ Roberts, Savannah (ngày 13 tháng 2 năm 2023). “Here's Every Song In Rihanna's Super Bowl Setlist: From 'What's My Name' To 'Diamonds'” [Đây là mọi bài hát trong danh sách biểu diễn Super Bowl của Rihanna: Từ 'What's My Name' đến 'Diamonds'] (bằng tiếng Anh). Capital FM. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Katy Perry covers Rihanna and Willow” [Katy Perry hát lại Rihanna và Willow] (bằng tiếng Anh). Capital FM. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Ellie Goulding — Only Girl in The World cover” [Ellie Goulding — Hát lại Only Girl in The World]. BBC Radio 1 (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Lights — EP” [Lights — Đĩa mở rộng] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple Inc. ngày 11 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Only Girl (In the World), by Xiu Xiu” [Only Girl (In the World), bởi Xiu Xiu]. Bandcamp (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2023.
- ^ Mamo, Heran (ngày 15 tháng 11 năm 2019). “Kelly Clarkson Is the 'Only Girl' Who Can Pull Off This Sky-High Rihanna Cover” [Kelly Clarkson là 'Cô gái duy nhất' có thể thể hiện màn hát lại ca khúc của Rihanna cao giọng ngất trời này]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
- ^ “Only Girl (In the World) – Single” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn] (bằng tiếng Anh). 7digital. ngày 24 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “"Only Girl (In the World) [Extended Club] - Single" von Rihanna” ["Only Girl (In the World) [Bản câu lạc bộ mở rộng] - Đĩa đơn" của Rihanna] (bằng tiếng Đức). Apple Music, Apple Inc. Tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Only Girl (In The World) – CD Single – Germany” [Only Girl (In The World) – Đĩa đơn CD – Đức]. Bravado (bằng tiếng Đức). ngày 8 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “Only Girl (In The World) – CD Single – UK” [Only Girl (In The World) – Đĩa đơn CD – Anh Quốc] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 20 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Only Girl (In the World) (Remixes)” [Only Girl (In The World) (Các bản phối lại)] (bằng tiếng Anh). Amazon. Tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “53rd Annual Grammy Awards nominees list” [Danh sách đề cử giải Grammy thường niên lần thứ 53] (bằng tiếng Anh). CBS. ngày 14 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b “26th Annual International Dance Music Awards Nominees and Winners” [Người được đề cử và người chiến thắng Giải thưởng Âm nhạc Dance Quốc tế thường niên lần thứ 26] (bằng tiếng Anh). Winter Music Conference. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ Nero, Mark Edward. “2011 Soul Train Awards” [Giải thưởng Âm nhạc Soul Train 2011] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Most Performed Songs (2011)” [Bài hát được biểu diễn nhiều nhất (2011)] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội các nhà soạn nhạc, tác giả và nhà xuất bản Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Most Performed Songs (2012)” [Bài hát được biểu diễn nhiều nhất (2012)] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội các nhà soạn nhạc, tác giả và nhà xuất bản Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Carole King Named BMI Icon at 60th Annual BMI Pop Awards” [Carole King được vinh danh là Biểu tượng BMI tại lễ trao giải BMI Pop thường niên lần thứ 60] (bằng tiếng Anh). Broadcast Music, Inc. ngày 14 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Issue 1074" (bằng tiếng Anh) ARIA Top 40 Urban Singles. National Library of Australia. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Austriancharts.at – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Ultratop.be – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Ultratop.be – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop Dance. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Ultratop.be – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Ultratop.be – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Pháp). Ultratop Dance. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ Rihanna — Only Girl (In the World) (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 52. týden 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Danishcharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Hits of the World: European Hot 100 Singles” [Những bản hit thế giới: Đĩa đơn Hot 100 Châu Âu]. Billboard (bằng tiếng Anh). 122 (45): 55. ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- ^ "Rihanna: Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Dance Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "The Irish Charts – Search Results – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Italiancharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Luxembourg Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023 – qua Wayback Machine.
- ^ "Nederlandse Top 40 – week 52, 2010" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Dutchcharts.nl – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Norwegiancharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Dance Top 50. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Portugal Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023 – qua Wayback Machine.
- ^ “Top 20 Nielsen Romania Week 07.02.2011 - 13.02.2011” [Top 20 Nielsen Romania tuần 07.02.2011 - 13.02.2011] (bằng tiếng Romania). Uniunea Producătorilor de Fonograme din România. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Media Forest – Weekly Charts (bằng tiếng Anh). Media Forest. ngày 7 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023. Ghi chú: Vị trí Romania và quốc tế được hiển thị cùng nhau theo số lượt phát rồi mới ra bảng xếp hạng tổng.
- ^ "Media Forest – Weekly Charts (bằng tiếng Anh). Media Forest. ngày 7 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023. Ghi chú: Chọn 'Songs – TV'. Ghi chú: Vị trí Romania và quốc tế được hiển thị cùng nhau theo số lượt phát rồi mới ra bảng xếp hạng tổng.
- ^ "Bảng xếp hạng Nga Airplay vào ngày 27 tháng 12 năm 2010" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023 – qua Wayback Machine.
- ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 44. týden 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Spanishcharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Swedishcharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Swisscharts.com – Rihanna – Only Girl (In The World)" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Bảng xếp hạng Ukraina Airplay vào ngày 27 tháng 12 năm 2010" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023 – qua Wayback Machine.
- ^ "Rihanna Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rihanna Chart History — Billboard Latin Songs” [Lịch sử bảng xếp hạng Rihanna — Billboard Latin Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Digital Song Sales – Week of February 25, 2023” [Digital Song Sales – Tuần ngày 25 tháng 2 năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Rihanna Chart History (Hot Dance/Electronic Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2010” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 100 đĩa đơn 2010] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Urban Singles 2010” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 50 đĩa đơn Urban 2010] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Jahreshitparade 2010 – austriancharts.at” [Đĩa đơn xuất sắc năm 2010 – austriancharts.at]. Ö3 Austria Top 40 (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Jaaroverzichten 2010 – Singles” [Báo cáo năm 2010 – Đĩa đơn] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rapports annuels 2010 – Singles” [Báo cáo năm 2010 – Đĩa đơn] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Best of 2010: Canadian Hot 100 Songs (21–30)” [Xuất sắc nhất năm 2010: Các bài hát Canadian Hot 100 (21–30)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Airplay Detection Tophit 200 Yearly – 2010” [Xếp hạng phát thanh Tophit 200 hàng năm – 2010] (bằng tiếng Anh). TopHit. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Track 2010 Top-50” [Bài hát top 50 năm 2010] (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Classement Singles – année 2010” [Xếp hạng đĩa đơn – năm 2010] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Bảng xếp hạng 100 album của năm] (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Dance Top 100 - 2010” [Dance Top 100 - 2010] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rádiós Top 100 - hallgatottsági adatok alapján - 2010” [Radio Top 100 - dựa trên dữ liệu khán giả - 2010] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “>> IRMA << Irish Charts — Best of 2010 >>” [>> IRMA << Bảng xếp hạng Ireland — Xuất sắc nhất năm 2010 >>] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Ghi âm Ireland. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Year 2010-Top 100 Annual Download Chart” [Năm 2010-Top 100 lượt tải xuống hàng đầu hàng năm] (bằng tiếng Ý). Nielsen. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top 100–Jaaroverzicht van 2010” [Top 100 bài hát hàng đầu–Báo cáo năm 2010] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “dutchcharts.nl – Dutch charts portal” [dutchcharts.nl – Cổng thông tin bảng xếp hạng Hà Lan] (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top Selling Singles of 2010” [Đĩa đơn bán chạy nhất năm 2010] (bằng tiếng Anh). Recorded Music New Zealand Limited. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top 50 Canciones Anual 2010” [Top 50 bài hát năm 2010] (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Årslista Singlar – År 2010” [Danh sách đĩa đơn của năm – Năm 2010] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Swiss Year-End Charts 2010 — swisscharts.com” [Bảng xếp hạng cuối năm của Thụy Sĩ 2010 — swisscharts.com]. Belgian Entertainment Association (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Pop Songs – Year-End 2010” [Pop Songs – Cuối năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rhythmic Songs – Year-End 2010” [Rhythmic Songs – Cuối năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2011” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 100 đĩa đơn 2011] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 50 Urban Singles 2011” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 50 đĩa đơn Urban 2011] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Jahreshitparade 2011 – austriancharts.at” [Đĩa đơn xuất sắc năm 2011 – austriancharts.at]. Ö3 Austria Top 40 (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Jaaroverzichten 2011 – Singles” [Báo cáo năm 2011 – Đĩa đơn] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rapports annuels 2011 – Singles” [Báo cáo năm 2011 – Đĩa đơn] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Best of 2011: Canadian Hot 100 Songs (21–30)” [Xuất sắc nhất năm 2011: Các bài hát Canadian Hot 100 (21–30)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Bảng xếp hạng 100 album của năm] (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Dance Top 100 - 2011” [Dance Top 100 - 2011] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rádiós Top 100 - hallgatottsági adatok alapján - 2011” [Radio Top 100 - dựa trên dữ liệu khán giả - 2011] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Japan Hot 100: Year-End” [Japan Hot 100: Cuối năm]. Billboard (bằng tiếng Nhật). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top 100-Jaaroverzicht van 2011” [Top 100 bài hát hàng đầu–Báo cáo năm 2010] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Jaaroverzichten – Single 2011” [Báo cáo năm – Đĩa đơn 2011] (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Romanian Top 100 - Top of the Year 2011” [Romanian Top 100 - Top bài hát của năm 2011] (bằng tiếng Romania). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top Radio Hits Russia Annual Chart 2011” [Bài hát hay nhất trên đài phát thanh Nga bảng xếp hạng hàng năm 2011] (bằng tiếng Nga). TopHit. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Annual 2011” [Của năm 2011]. Sverigetopplistan (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Swiss Year-End Charts 2011” [Bảng xếp hạng cuối năm của Thụy Sĩ 2011]. swisscharts.com (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Top Radio Hits Ukraine Annual Chart 2011” [Bài hát hay nhất trên đài phát thanh Ukraina bảng xếp hạng hàng năm 2011] (bằng tiếng Nga). TopHit. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Adult Contemporary — Year End 2011” [Adult Contemporary — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Adult Top 40 (Adult Pop Songs) — Year End 2011” [Adult Top 40 (Adult Pop Songs) — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Latin Pop Airplay (Latin Pop Songs) — Year End 2011” [Latin Pop Airplay (Latin Pop Songs) — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Rhythmic Song — Year End 2011” [Rhythmic Song — Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Hot Dance/Electronic Songs – Year-End 2023” [Hot Dance/Electronic Songs – Cuối năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2011” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Rihanna – Only Girl (In the World)” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
- ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Rihanna – Only Girl (In the World)” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Rihanna – Only Girl (In the World)” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023. Chọn "2010" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Only Girl (In the World)" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
- ^ “Awards Record” [Kỷ lục giải thưởng] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2024.
- ^ “Sverigetopplistan – Rihanna” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Only Girl (In the World)')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
- ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Rihanna – Only Girl (In the World)” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Only Girl (In The World) – Single – United Kingdom” [Only Girl (In the World) – Đĩa đơn – Anh Quốc] (bằng tiếng Anh). 7digital. ngày 25 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
Nguồn xuất bản
[sửa | sửa mã nguồn]- Oliver, Sarah (2011). Rihanna: The Only Girl In The World [Rihanna: Cô gái duy nhất trên thế giới] (bằng tiếng Anh). Luân Đôn, Vương quốc Anh: John Blake Publishing. tr. 192–215. ISBN 978-1-84358-423-0. OCLC 751806423.
- Govan, Chloe (2011). Rihanna: Rebel Flower [Rihanna: Đóa hoa nổi loạn] (bằng tiếng Anh). Thành phố New York, Hoa Kỳ: Omnibus Press. tr. 169-170. ISBN 978-1-78038-127-5. OCLC 751738537.
- Seabrook, John (2015). The Song Machine: Inside the Hit Factory [Cỗ máy âm nhạc: Bên trong nhà máy tạo hit] (bằng tiếng Anh). Thành phố New York, Hoa Kỳ: W. W. Norton & Company. tr. 217. ISBN 978-0-39324-192-1. OCLC 902661497.
- Đĩa đơn năm 2010
- Bài hát của Rihanna
- Đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100
- Đĩa đơn quán quân European Hot 100 Singles
- Đĩa đơn quán quân tại Vương quốc Liên hiệp Anh
- Đĩa đơn quán quân tại Áo
- Đĩa đơn quán quân tại Bỉ
- Đĩa đơn quán quân tại Canada
- Đĩa đơn quán quân tại Ireland
- Đĩa đơn quán quân tại New Zealand
- Đĩa đơn quán quân tại Na Uy
- Đĩa đơn quán quân tại Úc
- Đĩa đơn quán quân tại Ý
- Giải Grammy cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất
- Bài hát về tình dục
- Đĩa đơn quán quân Billboard Dance/Mix Show Airplay
- Đĩa đơn quán quân Billboard Hot Dance Club Songs
- Bài hát nhạc dance-pop
- Đĩa đơn quán quân tại Ba Lan
- Đĩa đơn quán quân tại Rumani
- Bài hát năm 2010
- Bài hát của Ellie Goulding
- Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
- Đĩa đơn của Def Jam Recordings