Hội chứng không dung nạp lactose
Hội chứng không dung nạp lactose | |
---|---|
Tên khác | Thiếu hụt Lactase |
Lactose được cấu tạo bởi hai đường đơn. | |
Khoa/Ngành | Khoa tiêu hóa |
Triệu chứng | Đau bụng, trương bụng, tiêu chảy, đầy hơi, buồn nôn[1] |
Biến chứng | Không gây hại cho đường tiêu hóa[2] |
Khởi phát | 30–120 phút sau khi sử dụng các sản phẩm từ sữa[1] |
Nguyên nhân | Thiếu hoặc không có khả năng tiêu hóa lactose (di truyền, tổn thương nhẹ hệ tiêu hóa)[1] |
Phương pháp chẩn đoán | Các triệu chứng biến mất sau khi loại bỏ lactose khỏi thực đơn[1] |
Chẩn đoán phân biệt | Hội chứng ruột kích thích, bệnh celiac, viêm ruột, dị ứng sữa[1] |
Điều trị | Giảm lactose trong khẩu phần ăn, bổ sung lactase, điều trị những nguyên nhân tiềm ẩn[1] |
Dịch tễ | 10% (Bắc Âu) đến 95% (một phần châu Á và châu Phi) |
Hội chứng không dung nạp lactose hay hội chứng bất dung nạp lactose (tiếng Anh: Lactose intolerance) là một tình trạng bệnh lý thể hiện ở những người thiếu hoặc không có khả năng tiêu hóa lactose, một loại đường tìm thấy trong các chế phẩm từ sữa.[1] Những người mắc chứng bệnh thể hiện triệu chứng và mức độ khác nhau, phụ thuộc vào lượng lactose họ có thể dung nạp.[1] Các triệu chứng bao gồm đau bụng, trương bụng, tiêu chảy, đầy hơi, và buồn nôn.[1] Những triệu chứng này thường được thể hiện rõ sau khoảng từ 30 phút đến 2 tiếng ăn hoặc uống các sản phẩm từ sữa.[1] Mức độ nghiêm trọng thường phụ thuộc vào lượng lactose người đó đưa vào cơ thể.[1] Hội chứng không dung nạp lactose không gây hại cho đường tiêu hóa.[2]
Người ta chưa biết rõ số lượng chính xác người trưởng thành bị hội chứng không dung nạp lactose.[3] Nó phổ biến trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến phần lớn dân số thế giới (với ước tính tổng thể khoảng 65%[4][5]).[6] Thực phẩm truyền thống các nền văn hóa thường phản ánh các biến thể địa phương về khả năng chịu.[6] Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ người có hội chứng không dung nạp lactose khác nhau giữa các nhóm dân tộc, phổ biến nhất ở những người có tổ tiên Người gốc Phi, Người gốc Tây Ban Nha / Latino hoặc Đông Á và ít phổ biến nhất ở những người người Châu Âu và gốc Ấn Độ.[5] Khởi phát thường ở cuối thời thơ ấu hoặc đầu tuổi trưởng thành,[1] but prevalence increases with age.[6] Khả năng tiêu hóa lactose khi trưởng thành đã phát triển ở một số quần thể người một cách độc lập, có thể là sự thích nghi với thuần hóa của động vật sữa 10.000 năm trước.[7][8]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k l “Lactose Intolerance”. NIDDK. tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
- ^ a b Heyman MB (tháng 9 năm 2006). “Lactose intolerance in infants, children, and adolescents”. Pediatrics. 118 (3): 1279–86. doi:10.1542/peds.2006-1721. PMID 16951027.
- ^ “How many people are affected or at risk for lactose intolerance?”. NICHD. ngày 6 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
- ^ Bayless TM, Brown E, Paige DM (tháng 5 năm 2017). “Lactase Non-persistence and Lactose Intolerance”. Current Gastroenterology Reports. 19 (5): 23. doi:10.1007/s11894-017-0558-9. PMID 28421381. S2CID 2941077.
- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênStat2020
- ^ a b c Storhaug CL, Fosse SK, Fadnes LT (tháng 10 năm 2017). “Country, regional, and global estimates for lactose malabsorption in adults: a systematic review and meta-analysis”. The Lancet. Gastroenterology & Hepatology. 2 (10): 738–746. doi:10.1016/S2468-1253(17)30154-1. PMID 28690131.
- ^ Ségurel L, Bon C (tháng 8 năm 2017). “On the Evolution of Lactase Persistence in Humans”. Annual Review of Genomics and Human Genetics. 18 (1): 297–319. doi:10.1146/annurev-genom-091416-035340. PMID 28426286.
- ^ Ingram CJ, Mulcare CA, Itan Y, Thomas MG, Swallow DM (tháng 1 năm 2009). “Lactose digestion and the evolutionary genetics of lactase persistence”. Human Genetics. 124 (6): 579–91. doi:10.1007/s00439-008-0593-6. PMID 19034520. S2CID 3329285.