Bước tới nội dung

Công thức nội suy Whittaker-Shannon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là phiên bản hiện hành của trang này do JohnsonLee01Bot (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 06:18, ngày 21 tháng 7 năm 2020 (Điều kiện: clean up, General fixes, replaced: →). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Công thức nội suy Whittaker-Shannon hay sinc interpolation là một phương pháp để tái tạo lại một tín hiệu liên tục có băng thông giới hạn từ một tập hợp các mẫu cách đều nhau.

Định nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Công thức nội suy được biết đến đầu tiên trong những nghiên cứu của E. Borel năm 1898, và E.T. Whittaker vào năm 1915, và được trích dẫn từ nghiên cứu của J.M. Whittaker vào năm 1935, và trong việc nghiên cứu xây dựng định lý lấy mẫu Nyquist–Shannon của Claude Shannon vào năm 1949. Nó cũng thường được gọi là công thức nội suy Shannoncông thức nội suy Whittaker.

Theo định lý lấy mẫu, với những điều kiện nhất định thì một hàm số x(t) có thể được tái lập hoàn toàn bằng những mẫu của nó x[n] = x(nT), bằng công thức nội suy Whittaker–Shannon:

Với T = 1/fschu kỳ lấy mẫu, fstần số lấy mẫu, và sinc(x) là hàm sinc.

Điều kiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Nếu hàm số x(t) có băng thông giới hạn (bandlimited) và tần số lấy mẫu đủ lớn thì công thức nội suy trên đảm bảo có thể tái tạo lại tín hiệu một cách chính xác. Cụ thể, nếu có tồn tại một số B ≥ 0, mà:

  1. Hàm số x(t) bị giới hạn băng thông đến B, có nghĩa là, nó có một biến đổi Fourier với |f| > B; và
  2. Tần số lấy mẫu, fs, lớn hơn tỷ lệ Nyquist, gấp đôi băng thông: fs > 2B.

Tương đương:

Sau đó, công thức nội suy sẽ tái tạo chính xác lại tín hiệu x (t) ban đầu từ các mẫu của nó. Nếu không, hiện tượng răng cưa có thể xảy ra, tức là các tần số cao hơn fs/2 có thể là bị tái lập sai.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]