Bước tới nội dung

Kim Dae-jung

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Kim Dae-Jung)
Kim Dae-jung
김대중
金大中
Chân dung chính thức, năm 1998
Tổng thống thứ 8 của Hàn Quốc
Nhiệm kỳ
25 tháng 2 năm 1998 – 25 tháng 2 năm 2003
5 năm, 0 ngày
Thủ tướngKim Jong-pil
Park Tae-Joon
Lee Han-dong
Chang Sang
Chang Dae-whan
Kim Suk-soo
Tiền nhiệmKim Young-sam
Kế nhiệmRoh Moo-hyun
Nghị sĩ Quốc hội
Nhiệm kỳ
30 tháng 5 năm 1988 – 19 tháng 12 năm 1992
4 năm, 203 ngày
Nhiệm kỳ
1 tháng 7 năm 1971 – 17 tháng 10 năm 1972
1 năm, 108 ngày
Nhiệm kỳ
17 tháng 12 năm 1963 – 30 tháng 6 năm 1971
7 năm, 195 ngày
Khu bầu cửMokpo (Nam Jeolla)
Nhiệm kỳ
14 tháng 5 năm 1961 – 16 tháng 5 năm 1961
2 ngày
Khu bầu cửInje (Gangwon)
Thông tin cá nhân
Sinh6 tháng 1 năm 1924
Hauido, Sinan, Nam Jeolla, Triều Tiên thuộc Nhật
Mất18 tháng 8 năm 2009 (85 tuổi)
Seoul, Hàn Quốc
Nơi an nghỉNghĩa trang Quốc gia Seoul, Hàn Quốc
Đảng chính trịĐảng Dân chủ
Phối ngẫu
Cha Yong-ae
(cưới 1945⁠–⁠1959)

Lee Hui-ho (cưới 1962)
Con cáiKim So-hee (con gái, 1946–1947)
Kim Hong-il (con trai, sinh 1948)
Kim Hong-up (con trai, sinh 1950)
Kim Hong-gul (con trai, sinh 1963)
Cha mẹKim Woon-sik và Jang Su-geum
Giáo dụcTrường Trung học Tài chính Mokpo
Tặng thưởngGiải Nobel Hòa bình (2000)
Huân chương Tự do Philadelphia (1999)
Tôn giáoCông giáo Roma (tên thánh: Thomas More)
Chữ ký
Phục vụ trong quân đội
Thuộc Hàn Quốc
Phục vụ Hải quân Đại Hàn Dân Quốc
Cấp bậcThiếu uý
Kim Dae-jung
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữGim Daejung
McCune–ReischauerKim Taejung
Bút danh
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữHugwang[1]
McCune–ReischauerHugwang

Kim Dae-jung (Tiếng Hàn: 김대중, Hanja: 金大中, phiên âm tiếng Việt: Kim Tê Chung, phiên âm Hán - Việt: Kim Đại Trung[2]; 6 tháng 1 năm 1924 - 18 tháng 8 năm 2009), thường được gọi bằng tên viết tắt của ông là DJ là chính khách, nhà hoạt động dân chủ Hàn Quốc, và là Tổng thống thứ 8 của Hàn Quốc từ năm 1998 đến năm 2003, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 2000. Kim là nguòi Hàn Quốc duy nhất cho đến hiện tại dược trao giải thưởng Nobel. Ông được mệnh danh là "Nelson Mandela của châu Á"[3][4] vì đã dành phần lớn cuộc đời để hoạt động chính trị nhằm đấu tranh chống lại chế độ độc tài cũng như chính sách Ánh dương mà ông đã áp dụng đối với Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở miền Bắc.

Ông Kim là ứng cử viên đối lập đầu tiên đắc cử tổng thống và được các sử gia xếp hạng là Tổng thống vĩ đại thứ 2 trong lịch sử Hàn Quốc (chỉ sau cố Tống thống Park Chung-hee, người đã đưa kinh tế Hàn Quốc phát triển ngoạn mục với kì tích sông Hán).

Sinh ra ở Hauido, Shinan-gun, Jeollanam-do. Kim Dae-jung phải chịu nhiều áp bức từ chế độ quân sự, bao gồm bắt cóc, quản thúc tại gia và bỏ tù. Kim tham gia chính trường với tư cách là thành viên của phe mới của Đảng Dân chủ. Ông là một chính trị gia đối lập, người đã thực hiện phong trào dân chủ hóa chống lại chế độ độc tài quân sự từ nền Cộng hòa thứ ba vào những năm 1960 đến nền cộng hòa thứ năm vào những năm 1980. Ông tiếp tục thua trong các cuộc bầu cử tổng thống cho đến cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 7 năm 1971, cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 13 năm 1987 và cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 14 năm 1992. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 15 năm 1997, ông đã đánh bại ứng cử viên Đảng Đại Quốc Lee Hoi-chang thông qua liên minh với Kim Jong-pil và DJP. Ông Kim là ứng cử viên đối lập đầu tiên đắc cử tổng thống. Vào thời điểm nhậm chức năm 1998, ông đã 74 tuổi, trở thành tổng thống lớn tuổi nhất trong lịch sử.

Ông thúc đẩy Chính sách Ánh dương, một chính sách xoa dịu Triều Tiên, và tổ chức hội nghị thượng đỉnh liên Triều lần đầu tiên với nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il vào tháng 6 năm 2000. Ông cũng là người Hàn Quốc duy nhất đoạt giải Nobel đến nay. Ông Kim trở thành người Hàn Quốc đầu tiên và duy nhất cho đến hiện này nhận giải Nobel Hòa bình trong nhiệm kỳ của mình vào năm 2000 vì những đóng góp của ông trong việc cải thiện nhân quyền và thúc đẩy quan hệ liên Triều và Nhật Bản. Ông cũng được trao Giải Nhân quyền Rafto của Na Uy năm 2000, và Huân chương Hoa hồng Sharon năm 1998, Giải thưởng Nhân quyền của Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế năm 1998, Huy chương Tự do Philadelphia của Hoa Kỳ năm 1999, Giải thưởng Nhân quyền Bắc Mỹ của Hiệp hội Nhân quyền Hàn Quốc, Giải thưởng Nhân quyền George Meany của Hoa Kỳ, đã nhận được Giải thưởng Nhân quyền Bruno Kreisky. Ông rất xuất sắc trong việc diễn thuyết trước công chúng và đã nhận được Sách kỷ lục Guinness thế giới cho bài phát biểu dài nhất trước Quốc hội. Ngay cả trong mùa đông lạnh giá nhất, nó vẫn được ví như cây kim ngân có thể chịu đựng mọi loại gió mưa. Sau khi mãn nhiệm kỳ năm 2003, ông qua đời ở tuổi 85 vào ngày 18 tháng 8 năm 2009 do suy đa tạng và hội chứng suy hô hấp do viêm phổi.

Tuổi trẻ và trước khi tham gia chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Kim Dae-jung năm 1943

Các văn bản chính thức ghi ngày sinh của Kim Dae-jung là 3 tháng 12 năm 1925, tuy nhiên có nguồn cho rằng ngày sinh thật là 6 tháng 1 năm 1924, chính Kim đã đổi để tránh bị cưỡng bức tòng quân trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc[5]. Ông sinh ra ở huyện Sinan, thuộc tỉnh Jeolla, nay là Jeolla Nam. Kim là hậu duệ thế hệ thứ 12 của Kim Ik-soo (김익수;金益壽), người từng giữ chức Bộ trưởng thứ hai của Bộ Chiến tranh (병조참판;兵曹參判) và Bộ trưởng dân sự (문신;文臣), người tham gia vào việc xây dựng Gwansanggam trong thời kỳ Joseon. Ik-soo là cháu trai của Kim Young-jeong (김영정;金永貞) của Gia tộc Gimhae Kim, điều này khiến ông trở thành họ hàng xa của Kim Jong-pil. Kim sinh ra ở Quận Sinan, Nam Jeolla lúc bấy giờ là Tỉnh Jeolla Nam; thành phố hiện nay ở Jeollanam-do. Gia đình Kim đã chuyển đến thành phố cảng Mokpo gần đó để anh có thể học xong trung học. Ông phải đổi tên thành Toyota Taichū (豊田大中) vì sắc lệnh sōshi-kaimei được thông qua.

Kim tốt nghiệp trường Trung cấp Kinh doanh Mokpo năm 1943 với thành tích xuất sắc. Sau khi làm thư ký cho một công ty hàng hải của Nhật, ông trở thành chủ công ty và trở nên giàu có. Ông đã được đào thoát khỏi sự xâm lược của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong Chiến tranh Triều Tiên[6]. Năm 1945, Kim cưới người vợ đầu tiên Cha Yong-ae và có hai con trai. Sau thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai và sự giải phóng của Hàn Quốc, ông được bầu làm chủ tịch ủy ban quản lý công ty. Năm 1946, khi Hàn Quốc mới được giải phóng tranh luận về cách tự quản lý lần đầu tiên sau 40 năm, ông gia nhập một tổ chức dân tộc chủ nghĩa với cả thành viên thân Cộng sản và chống Cộng nhưng đã rời đi sau những bất đồng với những người thân cộng sản.[7] Tuy nhiên, điều này khiến ông có nguy cơ bị truy nã từ các đối thủ chính trị trong sự nghiệp chính trị tương lai của mình. Năm 1947, ông mua một con tàu và thành lập công ty vận tải biển của riêng mình[8] và năm 1948, Kim trở thành chủ bút của nhật báo Mokpo. Khi Chiến tranh Triều Tiên bắt đầu vào tháng 6 năm 1950, Kim đang đi công tác ở Seoul. Khi đi bộ trở lại Mokpo, ông bị cộng sản Bắc Triều Tiên bắt và bị kết án bắn, mặc dù ông đã trốn thoát được.[6]

Đấu tranh chống độc tài quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
Kim Dae-jung và Kim Young-sam năm 1960

Kim bắt đầu tham gia chính trường từ năm 1954, dưới thời tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc là Lý Thừa Vãn. Ông đắc cử ghế nghị sĩ tại Quốc hội năm 1961, nhưng kết quả bầu cử bị hủy bỏ do lúc ấy đã xảy ra một cuộc đảo chính quân sự do tướng Park Chung Hee lãnh đạo[6]. Tuy nhiên ông liên tiếp đắc cử các cuộc bầu cử nghị viện vào các năm 1963 và 1967, sau đó dần trở thành lãnh tụ phái đối lập. Do đó, ông được phái đối lập đưa ra tranh cử trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1971.

Chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1971

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành khóa học thạc sĩ kinh tế tại Đại học Kyung Hee vào năm 1970,[9] ông tranh cử với tư cách là ứng cử viên đối lập cho cuộc bầu cử bầu cử tổng thống năm 1971 của đất nước, chống lại Tổng thống Park Chung Hee. Tổng thống Park đã bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ và đang tìm cách tranh cử nhiệm kỳ thứ ba. Là một nhà hùng biện rất tài năng, Kim có thể thu hút được lòng trung thành vững chắc của những người ủng hộ ông. Kim đã giành được sự đề cử của đảng đối lập trước Kim Young-sam, một chính trị gia ủng hộ dân chủ khác.

Kim hứa hẹn về một "nền kinh tế đại chúng" theo định hướng phúc lợi và cũng ủng hộ việc giảm bớt căng thẳng với Triều Tiên, đồng thời dự đoán chính xác rằng nếu Park tái đắc cử, ông sẽ trở thành một "nhà độc tài".[10]

Ông gần như đã có thể đánh bại Park, người đoạt được thắng lợi cuối cùng bằng một chiến dịch truyền thông đầy thiên vị[11]. Tuy vậy Kim đã tỏ ra ảnh hưởng mạnh mẽ; đặc biệt ở vùng Jeolla ông nhận được tới 95% phiếu phổ thông, một kỷ lục hiện vẫn chưa bị phá ở Hàn Quốc.

Âm mưu ám sát

[sửa | sửa mã nguồn]

Một tháng sau cuộc bầu cử tổng thống, trong khi Kim Dae-jung đang vận động tranh cử cơ quan lập pháp, ông đã bị tai nạn xe hơi nghiêm trọng sau cuộc bầu cử, đây có thể là một vụ tấn công có chủ đích (để lại thương tật vĩnh viễn cho ông ở hông). Do đó ông phải rời nước để sang Nhật, nơi ông tiếp tục lãnh đạo phong trào dân chủ chống độc tài, vốn trở nên càng mạnh mẽ bởi Hiến pháp Duy Tân năm 1972 của Park Chung-hee.

Bị NIS bắt cóc năm 1973

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 8 tháng 8 năm 1973, sau một cuộc họp với lãnh đạo Đảng Dân chủ Thống Nhất tại Khách sạn Grand Palace ở Tokyo, ông bị một nhóm đặc vụ Hàn Quốc trực thuộc NIS bắt cóc và dự định thủ tiêu nhưng sau đó đã được thả ra, điều mà về sau ông còn nhắc lại trong diễn văn khi nhận giải Nobel[12].

Tôi đã sống và tiếp tục sống với niềm tin rằng Chúa luôn ở bên tôi. Tôi biết điều này từ kinh nghiệm. Vào tháng 8 năm 1973, khi đang sống lưu vong ở Nhật Bản, tôi bị các nhân viên tình báo của chính phủ quân sự Hàn Quốc bắt cóc ngay từ phòng khách sạn ở Tokyo. Tin tức về vụ việc đã khiến cả thế giới phải giật mình. Các đặc vụ đưa tôi lên thuyền của họ đang thả neo dọc bờ biển. Họ trói tôi lại, bịt mắt tôi và bịt miệng tôi lại. Ngay khi họ chuẩn bị ném tôi xuống biển, Chúa Giêsu Kitô đã xuất hiện trước mặt tôi một cách rõ ràng như vậy. Tôi bám lấy ngài và cầu xin ngài ấy cứu tôi. Ngay lúc đó, một chiếc máy bay đã được chính Thiên Chúa toàn năng phái xuống để cứu tôi khỏi cánh cửa tử.

— Kim Dae-jung[12]

Philip Habib, đại sứ Hoa Kỳ tại tháng 5 năm Seoul, đã cầu thay cho ông với chính phủ Hàn Quốc; "máy bay" được nhắc đến là máy bay tuần tra của Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đang theo dõi những kẻ bắt cóc.[13]

Bị kết án tử hình và trục xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
Tổng thống Chun Doo-hwan đến gặp Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan tại Nhà Trắng vào tháng 2 năm 1981. Reagan mời Chun, để đổi lấy việc Chun giảm án tử hình cho Kim Dae-jung.

Sau đó, ông quyết định trở về Seoul, nhưng chính quyền quân sự cấm ông tham gia các hoạt động chính trị và năm 1976 thì bắt giam, kết án ông 5 năm tù vì đã tham gia một cuộc biểu tình lớn chống chính quyền[11], từ năm 1978, mức án được giảm xuống thành quản thúc tại gia dưới sức ép của cộng đồng quốc tế. Tổ chức Ân xá Quốc tế đã gọi ông là một "tù nhân lương tâm"[14].

Sau vụ ám sát Park Chung Hee năm 1979, Kim được trao trả tự do hoàn toàn. Nhưng chỉ một năm sau, 1980, Chun Doo-hwan tiến hành đảo chính và sau đó đàn áp dã man Phong trào dân chủ Gwangju. Trong làn sóng bắt bớ thanh trừng sau đó, ông bị tuyên án tử hình với hai tội danh là nổi loạngián điệp[15]. Nhiều tổ chức nhân quyềnquốc gia dân chủ đã vận động bãi bỏ án quyết này, trong đó Giáo hoàng Gioan Phaolô II có gửi thư cho Chun để xin ân xá cho Kim[16]. Trong lúc sắp bị hành hình (bằng cách bị trói đưa lên trực thăng và quăng xuống biển), sự can thiệp muộn màng của chính phủ Hoa Kỳ đã tỏ ra có hiệu quả: án quyết giảm xuống còn 20 năm tù, và về sau trở thành trục xuất sang Hoa Kỳ. Tháng 12 năm 1982, Kim Dae-jung sang cư trú tại Boston và giảng dạy với tư cách giáo sư thỉnh giảng ở Trung tâm Sự vụ Quốc tế của Đại học Harvard[17]. Trong thời kỳ này ông đã viết nhiều bài chỉ trích chính quyền độc tài quân sự của Chun trên các tạp chí uy tín. Vào ngày 30 tháng 3 năm 1983, Kim có bài phát biểu về nhân quyền và dân chủ tại Đại học EmoryAtlanta, Georgia và nhận bằng Tiến sĩ Luật danh dự của tổ chức này. Vào năm 1985, ông quyết định trở về quê hương.

Xây dựng nền dân chủ mới

[sửa | sửa mã nguồn]

Trở lại Seoul, Kim lập tức đối mặt với lệnh quản thúc, nhưng tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo phe đối lập. Năm 1987, Chun Doo-hwan nhìn nhận sự phản đối độc tài của người dân, đồng ý từ chức và tổ chức cuộc bầu cử Tổng thống công bằng đầu tiên ở Hàn Quốc. Phe đối lập đã không tìm được tiếng nói thống nhất, số phiếu của họ bị phân chia giữa Kim Dae-jung (27%) và Kim Young-sam (28%), khiến cho ứng viên Roh Tae-woo – một cựu tướng lĩnh được Chun đỡ đầu chiến thắng chỉ với 36.5 % phiếu phổ thông.

Năm 1992, ông lại một lần nữa thất bại trong cuộc bầu cử Tổng thống, lần này là cuộc đối đầu trực tiếp với Kim Young-sam, người sáp nhập đảng của mình với Đảng Dân chủ Công lý đương quyền để lập nên Đảng Đại Dân tộc[6]. Nhiều người tin rằng sự nghiệp chính trị của Kim Dae-jung đã kết thúc khi ông rời bỏ chính trường, sang Anh và nhận một vị trí tại Clare Hall thuộc Đại học Cambridge[18]. Tuy nhiên, năm 1995 ông đã tuyên bố quay lại và tham gia vào cuộc bầu cử Tổng thống lần thứ tư của mình.

Và lần này, tình thế có phần thuận lợi hơn cho ông khi công chúng đang phản đối chính sách của chính phủ trong việc vực dậy nền kinh tế khỏi cú sốc của cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á 1997 bùng nổ chỉ ít ngày trước ngày bầu cử. Kết quả là trong cuộc bầu cử ngày 18 tháng 12 năm 1997, liên danh với ứng viên phó tổng thống Kim Jong-pil ông đã đánh bại Lee Hoi-chang - ứng cử viên được Kim Young-sam hậu thuẫn. Thắng lợi ông cũng đến một phần từ sự chia rẽ của đảng đối lập, cho phép ông đắc cử với chỉ 40.3% phiếu phổ thông[19]. Ông chính thức tuyên thệ làm Tổng thống thứ 8 của Đại Hàn Dân Quốc, buổi lễ diễn ra vào ngày 25 tháng 2 năm 1998, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc một đảng cầm quyền đã chuyển giao quyền lực hòa bình cho người đối lập chiến thắng trong một cuộc bầu cử dân chủ.[6][20]

Tổng thống (1998-2003)

[sửa | sửa mã nguồn]
Kim vào tháng 1 năm 1998.
Kim đón tiếp Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton (bên trái) tại hội nghị APECAuckland, 12 tháng 12 năm 1999.

Ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 8 của Hàn Quốc vào ngày 25 tháng 2 năm 1998. Việc này đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc mà đảng cầm quyền chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho một đảng đối lập được bầu một cách dân chủ.[6][21] Kim nhậm chức trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Châu Á lên đến đỉnh điểm. Trong bài phát biểu nhậm chức, Tổng thống Kim đã mô tả chính quyền của mình là "chính phủ của nhân dân".

Khi Kim Dae-jung mới nhậm chức, đã có những ngờ vực về khả năng điều hành của ông, người được biết tới như một nhà hoạt động dân chủ nhiều hơn là một nhà quản lý. Tuy nhiên ông đã tỏ ra cực kỳ xuất sắc trong vị trí của mình.

Với tư cách là một ứng cử viên tổng thống, Kim đã đặt câu hỏi ngắn gọn về các điều kiện kèm theo các khoản vay của IMF và gợi ý rằng ông có thể đàm phán lại. Tuy nhiên, sau khi đắc cử, Kim đã nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của thỏa thuận IMF trong việc khôi phục sức khỏe kinh tế của Hàn Quốc.[22] Kể từ đó, ông đã thực hiện chính sách tân tự do nhất trong số các tổng thống lớn của Hàn Quốc, và biệt danh của ông là "Nhà cách mạng tân tự do" (Tiếng Hàn신자유주의 혁명가).[23]

Đáp lại cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính (kinh tế tăng trưởng – 5.8% năm 1998), Tổng thống Kim đã tiến hành những cuộc cải cách mạnh mẽ nhằm tái cấu trúc nền kinh tế[6]. Ông tìm cách giảm bớt những ưu đãi cho các Chaebol (các tập đoàn gia tộc đại tư bản lớn, lâu đời ở Hàn Quốc như LG, Hyundai hay Samsung – có quyền lực về kinh tế và quan hệ mật thiết với chính quyền) trong khi tăng cường sự minh bạch về tài chính. Năm 1999, nền kinh tế tăng trưởng trở lại 10.2% và tiếp tục duy trì tốc độ những năm sau đó[3]. Ông cũng vận động để đưa thành luật dẫn đến sự hình thành chế độ phúc lợi xã hội đương đại ở Hàn Quốc[24][25]; trong nhiệm kỳ của ông Hàn Quốc đã đồng tổ chức (cùng với Nhật Bản) thành công World Cup 2002. Ông cũng tỏ ra khoan dung với những lãnh đạo cũ của chế độ đã từng bắt giữ và tuyên án tử hình mình.

Cải cách lao động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ của Kim Dae-jung cũng nâng cao tính linh hoạt của thị trường lao động như một mục tiêu chính của cải cách cơ cấu.

Kim đã tạo ra các thỏa thuận họp tác giữa doanh nghiệp, lao động và chính phủ để khiến họ hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề tài chính của đất nước. Lịch sử lâu dài của ông Kim trong phe đối lập, quan điểm ủng hộ lao động và các thông tin đăng nhập dân túy, người ngoài cuộc nói chung của ông đã giúp ông có được cơ sở cử tri giai cấp công nhân được vận động và chiến đấu hy sinh để đáp ứng sự ổn định tài chính, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp hy sinh tương tự thời gian.[26]

Sau khi đàm phán tham vấn giữa ba bên lao động thành công, doanh nghiệp và chính phủ, Đạo luật tiêu chuẩn lao động đã được Quốc hội sửa đổi vào ngày 13 tháng 2 năm 1998. Theo hiệp định mới, doanh nghiệp hứa đảm bảo tính minh bạch trong quản lý của mình và thực hiện các biện pháp thận trọng khi sa thải nhân viên. . Cụ thể, luật đã cung cấp cơ sở pháp lý để điều chỉnh việc làm và chỉ cho phép sa thải sau khi một công ty đã cân nhắc hợp lý lợi ích của người lao động. Mặt khác, người lao động đồng ý thực hiện việc sa thải lao động linh hoạt để tái cơ cấu, đồng thời cam kết hướng tới nâng cao năng suất và hợp tác với doanh nghiệp về tiền lương và giờ làm việc. Về phía chính phủ, chính phủ cam kết tăng cường các chương trình hỗ trợ của mình bằng cách cung cấp đào tạo nghề và thông tin về việc làm lại. Các lựa chọn việc làm mới như làm việc tạm thời, việc làm bán thời gian và làm việc tại nhà đã được phát triển. Để đối phó với tình trạng sa thải quy mô lớn dự kiến ​​từ cuộc khủng hoảng kinh tế và quá trình tái cơ cấu, chính phủ cũng cam kết tăng cường và mở rộng phạm vi bảo hiểm thất nghiệp.[26]

Cơ sở hạ tầng mạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính quyền Kim Dae-jung đã xây dựng cơ sở hạ tầng ICT tốc độ cao trên toàn quốc và thúc đẩy các doanh nghiệp CNTT và mạo hiểm làm nguồn tăng trưởng trong tương lai. Trong bài phát biểu nhậm chức, ông bày tỏ tầm nhìn để Hàn Quốc tiến lên "từ hàng ngũ xã hội công nghiệp...vào hàng ngũ xã hội tri thức và dựa trên thông tin, nơi kiến ​​thức và thông tin vô hình sẽ là động lực cho phát triển kinh tế".[27][28] Ngày nay, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có công nghệ phát triển nhất thế giới và có cơ sở hạ tầng mạng được kết nối tốt, bắt đầu được xây dựng và bồi dưỡng dưới thời Tổng thống Kim.

Đối ngoại với Bắc Triều Tiên

[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 2 năm 2001, Tổng thống Nga Vladimir Putin ăn tối với Kim Dae-Jung.
Tổng thống George W. Bush và Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung tại Nhà Xanh, ở Seoul, Hàn Quốc năm 2002.

Đối với Triều Tiên, chính quyền Kim Dae-jung thực hiện một đường lối ngoại giao mềm dẻo được biết dưới tên Chính sách Ánh dương. Trong khi lên án các hành động khiêu khích quân sự của Bình Nhưỡng, Hàn Quốc tuyên bố không có ý định tái chiếm miền Bắc bằng bất kỳ cách thức nào và tìm cách cường hợp tác giữa hai miền, tránh xung đột và chính trị hóa các sự vụ. Kết quả là các gia đình bị ly tán giữa hai miền đã có cuộc gặp gỡ hiếm hoi, các công ty Hàn Quốc được phép đầu tư có giới hạn ở miền gần biên giới hai nước và Hàn Quốc cũng như cộng đồng quốc tế có kênh tiếp cận cho các mục đích viện trợ nhân đạo. Đỉnh điểm của chính sách này là hội nghị thượng định có tính lịch sử năm 2000 giữa Kim Dae-jung và lãnh tụ Triều Tiên Kim Jong-il[29]. Điều này đã giúp Kim Dae-jung nhận giải Nobel Hòa bình của năm 2000, nhưng cũng có những chỉ trích rằng chính sách này đã che đậy các tội ác tàn bạo ở miền Bắc trong thời gian đó cũng như chuyển giao một khoản tiền viện trợ lớn cho chính phủ Bình Nhưỡng nhằm đổi lấy thỏa thuận[30]. Năm 2003, Chánh văn phòng Nội các của Kim là Park Ji-won đã phải chịu án tù 12 năm với một số cáo buộc, trong đó có liên quan tới việc Hyundai trả tiền cho Hội nghị liên Triều[29]. Park đóng vai trò then chốt trong việc sắp xếp Hội nghị thượng đỉnh liên Triều đầu tiên. Vào tháng 5 năm 2006, ông ta bị kết án ba năm tù. Park được trả tự do vào tháng 2 năm 2007 và được ân xá vào tháng 12 năm 2007.[31] Cũng để thuyết phục Triều Tiên tham dự hội nghị thượng đỉnh, một số "tù nhân dài hạn chưa cải đạo" do Hàn Quốc giữ đã được thả và trở về Triều Tiên.[32]

Những năm cuối đời

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc tang của ông Kim năm 2009

Kim Dae-jung đã tăng cường thực hiện những biện pháp ngăn chặn việc chống lại Triều Tiên để có thể giải trừ vũ khí hạt nhân và bảo vệ cho chính sách Ánh dương của mình[33]. Ông nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Portland vào ngày 17 tháng 4 năm 2008.

Kim Dae-jung mất ngày 18 tháng 8 năm 2009 tại Bệnh viện Đại học YonseiSeoul. Nguyên nhân của cái chết được cho là Hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan[34]. Một tang lễ liên tôn giáo cấp quốc gia được tổ chức cho ông vào ngày 23 tháng 8 trước tòa nhà Quốc hội, với đám rước đưa thi hài ông tới Nghĩa trang Quốc gia Seoul bằng nghi thức Công giáo. Ông là người thứ 3 trong lịch sử Hàn Quốc nhận nghi thức quốc tang[35]. Một bức điện tín do Wikileaks tiết lộ đã cho thấy một vị Đại sứ quán Hoa Kỳ đã mô tả ông là vị "Tổng thống cánh tả đầu tiên của Nam Hàn"[36].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Former South Korean President Kim Dae-jung Dies at 85”. Jakarta Globe. ngày 18 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2009.
  2. ^ “Điện chia buồn cựu Tổng thống Hàn Quốc Kim Tê Chung từ trần”. So Ngoại vụ TP.HCM. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015.
  3. ^ a b “Kim Dae-jung: Dedicated to reconciliation”. CNN. ngày 14 tháng 6 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  4. ^ Kim Dae-jung, Ex-President of S. Korea, Dies at 83
  5. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BBCobit
  6. ^ a b c d e f g “Kim Dae Jung”. Encyclopædia Britannica. 2009. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên NYT Profile
  8. ^ “Jeolla President: unlikely election of Kim Dae-jung”. The Korea Times. 2 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.
  9. ^ Khatri, Vikas (2012). Nobel Peace Prize Winners. V&S Publishers. tr. 80.
  10. ^ “Kim Dae-jung's Role in the Democratization of South Korea”. Association for Asian Studies. 2014. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.
  11. ^ a b “Kim Dae-jung – Biography”. The Nobel Foundation. 2000. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  12. ^ a b “Kim Dae-jung – Nobel Lecture”. The Nobel Foundation. 2000. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Kim Dae-jung - Nobel Lecture” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  13. ^ Oberdorfer, Don; Carlin, Robert (2014). The Two Koreas: A Contemporary History. Basic Books. tr. 35. ISBN 9780465031238.
  14. ^ “Kim Dae-jung, human rights champion and former South Korean president, dies”. Amnesty International. ngày 19 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2012.
  15. ^ Choe, Sang-hun (ngày 18 tháng 8 năm 2009). “Kim Dae-jung, 83, Ex-President of South Korea, Dies”. The New York Times. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  16. ^ “John Paul II's appeal saved future Korean president from death sentence”. Catholic News Agency. ngày 21 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  17. ^ “BBC Vietnamese”. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  18. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2013.
  19. ^ “1997 South Korean Presidential Election”. University of California, Los Angeles – Center for East Asian Studies. 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2013.
  20. ^ “Opposition boycott shadows South Korea's new president”. CNN. ngày 25 tháng 2 năm 1998. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  21. ^ “Opposition boycott shadows South Korea's new president”. CNN. 25 tháng 2 năm 1998. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  22. ^ Sharma, Shalendra (2003). The Asian financial crisis: Crisis, reform and recovery. Manchester University Press. tr. 220.
  23. ^ “신자유주의 혁명가 김대중의 성공 그리고 한계”. 시사IN. 24 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2021.
  24. ^ Takegawa, Shogo (tháng 12 năm 2005). “Japan's Welfare State Regime: Welfare Politics, Provider and Regulator” (PDF). Development and Society. 34 (2): 169–190. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  25. ^ Muthu, Rajendran (2006). “Social Development in Japan: A Focus on Social Welfare Issues” (PDF). Journal of Societal & Social Policy. 5 (1): 1–20. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  26. ^ a b Sharma, Shalendra (2003). The Asian financial crisis: Crisis, reform and recovery. Manchester University Press. tr. 240.
  27. ^ Hua, Shiping; Hu, Ruihua (17 tháng 12 năm 2014). East Asian Development Model: Twenty-first century perspectives. Routledge. ISBN 9781317815778.
  28. ^ Chung, Choong-sik (6 tháng 5 năm 2020). Developing Digital Governance: South Korea as a Global Digital Government Leader. Routledge. ISBN 9780429623363.
  29. ^ a b Ginsburg, Tom (2004). Legal Reform in Korea. Psychology Press. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  30. ^ Cathy Hong (ngày 18 tháng 11 năm 2003). 18 tháng 11 năm 2003/news/fine-young-communists/ “Fine Young Communists” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). The Village Voice. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.[liên kết hỏng]
  31. ^ “Park Jie-won gets leave from jail for treatment”. Korea JoongAng Daily. 6 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2020.
  32. ^ Ahn, Mi-young (5 tháng 9 năm 2000). “Spies' repatriation causes unease in Seoul”. Asia Times Online. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2010.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  33. ^ Sunny Lee (ngày 7 tháng 5 năm 2008). “South Korea's Sunshine policy strikes back”. Asia Times Online. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  34. ^ “Former S. Korean President Kim Dae-Jung Dies”. The Seoul Times. ngày 18 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2009.
  35. ^ Barbara Demick (ngày 19 tháng 8 năm 2009). “Kim Dae-jung dies at 85; former South Korean president and Nobel laureate”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  36. ^ Lee (이), Seong-gi (성기) (ngày 6 tháng 9 năm 2011). "DJ, 좌파 첫 대통령" 위키리크스 외교전문”. Hankook Ilbo (bằng tiếng Triều Tiên). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2011.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]