Bước tới nội dung

Chinwendu Ihezuo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là phiên bản hiện hành của trang này do NgNMinh (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 07:57, ngày 26 tháng 7 năm 2024. Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)
Chinwendu Ihezuo
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Chinwendu Veronica Ihezuo
Ngày sinh 30 tháng 4, 1997 (27 tuổi)
Nơi sinh Lagos, Nigeria
Chiều cao 1,75 m (5 ft 9 in)
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Pachuca
Số áo 30
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2014–15 Delta Queens F.C.
2016–2018 BIIK Kazygurt 20 (16)
2019–2020 Henan Jianye 14 (7)
2021–2022 Meizhou Hakka
2023 Monterrey 27 (10)
2024– Pachuca 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2012–2014 U-17 Nigeria
2014–2016 U-20 Nigeria
2016– Nigeria 6 (1)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 24 tháng 8 năm 2019
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 19 tháng 4 năm 2019

Chinwendu "Chinwe" Ihezuo (sinh ngày 30 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Pachuca tại Liga MX Femenil của México và đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nigeria.

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Ihezuo sinh ngày 30 tháng 4 năm 1997 tại Ajegunle, Lagos, Nigeria.[1][2][3] Cô trải qua thời kỳ tuổi thơ trong một khu ổ chuột ở Lagos.[2] Cô có chiều cao là 1,75 m (5 ft 9 in).[1] Bố mẹ cô rất ủng hộ cô khi cô bắt đầu chơi bóng đá. Mẹ cô ủng hộ sở thích của cô về môn thể thao này bằng cách mua áo bóng đá ở thị trường địa phương.[2] Trong suốt phần lớn tuổi trẻ của mình, cô thi đấu và chơi với các chàng trai trong khu ổ chuột Ajegunle. Ajegunle là nơi xuất thân xuất một số cầu thủ bóng đá nam tốt nhất của Nigeria. Kết quả là, khi tự mình luyện tập, Ihezuo thích tập luyện với đàn ông.[2]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ihezuo gia nhập câu lạc bộ chuyên nghiệp BIIK Kazygurt của Kazakhstan trong năm 2016 theo hợp đồng một năm.[1][2][4][5] Trong mùa giải đầu tiên của cô với câu lạc bộ nơi cô được cho mặc số 19, cô đã ghi 16 bàn cho BIIK Kazygurt sau 20 lần ra sân.[1][3] Cô thi đấu với đội tại Giải vô địch bóng đá nữ UEFA 2016–17, bắt đầu hai trận đấu và chơi 180 phút. Cô chơi bóng liên tục rong khoảng thời gian đó, cô cũng bị phạt một thẻ vàng trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà của đội bóng trước đội bóng xứ Wales.[1][3] Cô tham gia thi đấu lần đầu tại Champions League trong chiến thắng 3–1 của đội trước Wexford Youths trong vòng loại giải đấu.[3]

Từ năm 2012 đến 2014, cô chơi cho Pelican Stars of Calabar.[6][7] Sau đó, cô chuyển đến Delta Queens và thma gia thi đấu cho đội bóng này cho đến cuối mùa giải 2015.[2]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e starconnect (ngày 19 tháng 10 năm 2016). “Chiwendu Ihezuo Arrives, Trains With Falconets”. Starconnect. Nigeria: Starconnect Media. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  2. ^ a b c d e f Ojoye, Taiwo (ngày 24 tháng 4 năm 2016). “Ajegunle boys made me fall in love with football — Ihezuo – Punch Newspapers”. Punch Newspapers (bằng tiếng Anh). Nigeria: Punch Newspapers. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  3. ^ a b c d UEFA. “UEFA Women's Champions League – Chinwendu Ihezuo”. UEFA. UEFA. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  4. ^ “Chinwendu Ihezuo – Player Profile – Football”. Eurosport. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ Iroha-Udoka, Jude (ngày 18 tháng 10 năm 2016). “Ihezuo arrives Falconets camp for U20 Women's World Cup » TODAY.ng”. TODAY. Akwa Ibom, Southern Nigeria: TODAY Digital News and Media Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  6. ^ “Ihezuo, Ayinde to receive FIFA honours”. Premium Times Nigeria (bằng tiếng Anh). Ikeja, Lagos, Nigeria: The Premium Times, Nigeria. ngày 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  7. ^ “Chinwendu Ihezuo Scores Only Goal In Narrow Win”. SL10. Nigeria: Soccer Laduma. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.