Bước tới nội dung

Tố Hữu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do 203.160.1.45 (thảo luận) sửa đổi vào lúc 09:40, ngày 12 tháng 3 năm 2008 (→‎Tiểu sử). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Tố Hữu (tên thật là Nguyễn Kim Thành; 19202002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam.

Tiểu sử

Ông sinh tại Hội An, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ cùng quê hương Huế đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu. [1]

Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với ý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.

Tháng 4 năm 1939, ông bị bắt, bị tra tấn và giam tại nhiều nhà tù miền Trung như Lao Bảo, Huế, Ban Mê Thuột...

Cuối năm 1941, ông vượt ngục về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế. Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

  • 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
  • 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
  • Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
  • Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
  • Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
  • Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
  • 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới năm 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.

Năm 1958, ông tham gia dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm của các văn nghệ sĩ miền Bắc.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minhvề VHNT đợt 1

Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.

Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín vì vai trò "nhà thơ đi làm kinh tế" qua những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một chức nghiên cứu hình thức.

Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.

Quan điểm chính trị

  • Ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn-Giai phẩm với tư cách là người thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách văn nghệ. Nhiều ý kiến coi ông tà tác giả chính của vụ án văn nghệ-chính trị này.
  • Ông cũng được đánh giá là con người khá bảo thủ, khi bị phê bình về các tác phẩm của mình thì thường có phản ứng rất quyết liệt (Theo nhận định của Văn Cao thì chính lí do này khiến ông bị nghi hoặc là có liên quan đến việc đẩy mạnh dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm và không được nhiều cảm tình từ phía các nghệ sĩ khác).
  • Ngoài ra, ông còn là nhà thơ chính trị, có nhiều bài ca ngợi các lãnh tụ cộng sản quốc tế như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin...
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hải đăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!

Đóng góp văn học

Các tác phẩm

  • Tập thơ Từ ấy (1946)
  • Tập thơ Việt Bắc (1954)
  • Tập thơ Gió lộng (1961)
  • Tập thơ Ra trận (1962-1971)
  • Tập thơ Máu và Hoa (1977)
  • Tập thơ Một tiếng đờn (1992)
  • Tập thơ Ta với Ta (1999)

Một số bài thơ tiêu biểu:

Giải thưởng

  • Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)
  • Giải thưởng văn học ASEAN (1996)
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1, 1996)

Phong cách nghệ thuật

  • Tố Hữu thường sáng tác với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu thường thể hiện những vấn đề lớn về Đảng, về đất nước và thường hướng đến khơi dậy niềm vui, niềm tin, hướng tới tương lai. Tuy nhiên ông không tránh khỏi sa đà vào việc ca ngợi một chiều Đảng, Nhà nước. Nhiều lúc để phù hợp với tình hình, thơ Tố Hữu trở thành những lời kêu gọi, hiệu triệu mà nhiều khi cảm xúc không theo kịp, khiến tác phẩm mất hết cả chất thơ.
  • Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Ông có khả năng "thơ hoá" các vấn đề chính trị "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình." (Xuân Diệu. Máu và Hoa, con đường của nhà thơ Tố Hữu (tiếng Pháp). Liên hiệp các nhà xuất bản, Paris, 1975)
  • Thơ Tố Hữu, dễ cảm, dễ tiếp thu, nặng về tính truyền thống hơn là sự tìm tòi đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Tố Hữu rất thường dùng các biện pháp tu từ quen thuộc trong ca dao dân ca, và nhiều hình ảnh ước lệ cũng rất quen. Giọng thơ thường là giọng tâm tình, ngọt ngào, ảnh hưởng nhiều bởi dân ca, nhất là dân ca Huế.
  • Thơ Tố Hữu ít có sự gọt giũa về nghệ thuật, chủ yếu là thể hiện tình cảm, với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình. Đây là một nét thơ đặc trung của Tố Hữu, có điều lắm khi "ít gọt giũa" cũng là nhược điểm chí mạng của ông.

Sự kiện rắc rối sau khi ông mất

Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản kháng từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân Đội Nhân Dân trích đăng 3 kì từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", (kì số 3 vào ngày 7 tháng 5 năm 2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân Dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội...

Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm và các nhà văn nạn nhân..., ông Tố Hữu có những lời ca ngợi các người này.

Bài phỏng vấn được thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình”. Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu.

Thực hay giả, đúng hay sai, nhưng thực tế nó đã được các tờ báo chính thống ở Việt Nam phổ biến. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa[4].

Chú thích

^ Bộ Giáo dục. Sách giáo khoa Văn lớp 12, 2007

Liên kết ngoài