Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Biểu trưng loài vật”
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
|||
Dòng 44: | Dòng 44: | ||
|- |
|- |
||
|Con [[cáo]] có thể được sử dụng để miêu tả một người nào đó gian giảo, dối trá, láu cá, ranh vặt ở cả hai ngôn ngữ Việt và Anh||Đề cập đến sự xảo trá, người Anh hay nói "''... is sly as a fox''" (xảo quyệt như con cáo) hay "''as cunning as a fox''" (ranh mãnh như cáo)|| Người Việt cũng dùng hình ảnh con cáo trong câu như "''Nó là con cáo xảo quyệt''" hay mắng những người gian manh quỷ quyệt là "''đồ cáo già''" hay câu "''mèo già hóa cáo''", hay câu chửi "''đồ con hồ ly tinh''" (chỉ về những cô gái chuyên giựt chồng người). |
|Con [[cáo]] có thể được sử dụng để miêu tả một người nào đó gian giảo, dối trá, láu cá, ranh vặt ở cả hai ngôn ngữ Việt và Anh||Đề cập đến sự xảo trá, người Anh hay nói "''... is sly as a fox''" (xảo quyệt như con cáo) hay "''as cunning as a fox''" (ranh mãnh như cáo)|| Người Việt cũng dùng hình ảnh con cáo trong câu như "''Nó là con cáo xảo quyệt''" hay mắng những người gian manh quỷ quyệt là "''đồ cáo già''" hay câu "''mèo già hóa cáo''", hay câu chửi "''đồ con hồ ly tinh''" (chỉ về những cô gái chuyên giựt chồng người). |
||
|- |
|||
| [[Hình tượng con lợn trong văn hóa|Hình tượng con lợn trong hai nền văn hóa]] là khá tương đồng, chỉ về sự miệt thị thói phàm ăn và bề ngoài mập phệ || Trong tiếng Anh có các từ "''as greedy as a pig''" (tham ăn như lợn); "''make a pig of oneself''" (ăn uống thô tục); "''as fat as a pig''" (béo như lợn)|| Trong tiếng Việt cũng có những từ lạ lỵ tương tự như: ''Ăn như lợn'' (Chế diễu ai đó ham ăn, phàm ăn, hư ăn, háu ăn); ''đồ con lợn'' (một câu chửi), ''đồ mặt lợn'', ''như con lợn'', ''đồ Trư Bát Giới'' |
|||
|- |
|||
|[[Hình tượng con khỉ trong văn hóa|Hình tượng con khỉ trong hai nền văn hóa]] cũng có nét tương đồng và thiên về sự miệt thị về tính láu táu, hay nhảy nhót ||Trong tiếng Anh có câu "''as tricky as a monkey''" (tinh ranh như khỉ) hay câu "''as agile as a monkey''" (nhanh nhẹn như khỉ) và có từ “''monkey job''” (trò khỉ); khỉ là một hình ảnh không đẹp, còn dùng để phân biệt chủng tộc khi người ta làm bộ miệng hú, rồi đấm ngực, vung tay, nhảy nhót như khùng và ném chuối vào người khác; nguyên đệ nhất Phu nhân Michelle Obama cũng từng bị ví là khỉ đột||Ở Việt Nam, điểm chung hai miền Nam Bắc là dùng từ "''khỉ''" để diễn tả cái ý "''không ra gì''" (miền Nam có nhiều cách ghép đôi như "''khỉ cùi''", "''khỉ khô''", "''khỉ mốc''"), “''rõ khỉ''”; có nhiều từ được dùng để chỉ khỉ: ''hầu'', ''khỉ'', ''khởi'', ''khẹc'', ''khọn'', ''tườu'', ''nỡm'', ''bù dù'', ''đười ươi'', ''vượn'' và ''nghề'' đều gợi lên ấn tượng về thói láu táu, nghịch ngợm, phá phách và phét lác của chúng.<br> Nhiều lời mắng liên quan đến khỉ xuất hiện khá nhiều: “''Đồ khỉ''!”, “''Đồ khỉ gió''!”, “''Đồ con tườu''!”, “''Đồ con khẹc''!”, “''Đồ nỡm''!”, “''Đồ con nỡm''!”, “''Đồ bú dù''!”, “''Làm trò khỉ''!”, “''Đồ khỉ đột''!”, “''Khỉ mốc, đừng tưởng bở''!”. Gặp phải chuyện chẳng vừa ý thì hay chửi “''Khỉ thật''!”, “''Khỉ họ''!”, “''Bố khỉ''”; <br> khi thất vọng, bực bội khi việc chưa xong: “''Chẳng được việc khỉ gì cả''”, “''Chẳng ra cái khỉ khô gì cả''!”, thái độ cau có, khó chịu: “''Đồ khỉ dính mắm tôm''”, “''Nhăn nhó khi khỉ dính mắm tôm''”, “''Mặt nhăn như khỉ''”, “''Nhăn nhó như khỉ ăn gừng''”, “''Khó tính như con nỡm''”, "''cái con khỉ''"; chê bai những việc làm chẳng đi đến đâu, chỉ làm mọi việc trở nên rối rắm: “''Giết gà dọa khỉ''”, “''Rung cây nhát khỉ''”, “''dạy khỉ leo cây''”; "''nuôi khỉ dòm nhà''" |
|||
|- |
|- |
||
|[[Hình tượng loài chim trong văn hóa|Hình tượng chim muông]] là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp|| Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "''Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe''" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) hay “''a wild goose chase''” ý nói về cuộc tìm kiếm vô vọng || Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "''cá bể chim ngàn''", "''cá nước chim trời''", "''chim trời cá bể (biển)''", "''như chim đang được sổ lồng tung cánh''", "''như chim sổ lồng''", hay "''Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông''" (ca dao). |
|[[Hình tượng loài chim trong văn hóa|Hình tượng chim muông]] là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp|| Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "''Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe''" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) hay “''a wild goose chase''” ý nói về cuộc tìm kiếm vô vọng || Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "''cá bể chim ngàn''", "''cá nước chim trời''", "''chim trời cá bể (biển)''", "''như chim đang được sổ lồng tung cánh''", "''như chim sổ lồng''", hay "''Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông''" (ca dao). |
Phiên bản lúc 08:47, ngày 26 tháng 4 năm 2020
Biểu trưng loài vật (Animal epithet) là một tính ngữ (tên gọi, cụm từ) văn học được sử dụng để chỉ cho một người hoặc một nhóm cộng đồng hoặc sự vật, hiện tượng, bằng cách gắn kết, liên tưởng với một số phẩm chất, đặc tính, yếu tố của một động vật (tính ký hiệu liên tưởng đến động vật). Trong lịch sử, con người thường liên hội tâm tư và tình cảm với các loại động vật khác nhau tương ứng theo đặc điểm của từng con vật đó, ví dụ, đặc điểm ngoại hình (hình thức, kích cỡ, màu sắc), thuộc tính bản năng, thức ăn, môi trường sống, tập quán sinh sống vì vậy, tên hay hình ảnh của con vật đó có những liên hội về văn hóa. Động vật ở vị thế này được phong cho ý nghĩa tôn giáo và với sức mạnh biểu tượng và ẩn dụ, nghĩa của thành tố động vật trong thành ngữ chính là nghĩa biểu trưng của thành ngữ, mọi thành ngữ có thành tố chỉ động vật đều mang nghĩa biểu trưng.
Các biểu tượng hay biểu trưng này có thể được xây dựng dưới dạng trào phúng, so sánh rõ ràng con người với động vật được biểu trưng, hoặc như phép ẩn dụ. Các biểu trưng động vật có thể mang tính miệt thị, dễ gây xúc phạm và đôi khi chúng được sử dụng trong các chiến dịch chính trị. Phúng dụ về loài vật và ẩn dụ đã được sử dụng từ thời cổ điển, ví dụ như Homer và Virgil để nâng cao hiệu ứng trong văn học, và tóm tắt các khái niệm phức tạp một cách chính xác. Danh xưng, tên họ, địa danh gắn với loài vật được ghi nhận ở các quốc gia khác nhau, có thể là hoán dụ, đặt tên cho nghề nghiệp của một người, nói chung là trong thời trung cổ; địa danh, đặt tên nơi một người sống; hoặc biệt danh, so sánh người đó thuận lợi hoặc bằng cách khác với loai vật được đặt tên, một biểu trưng loài vật trong tiếng Anh thì yếu tố thành tố con cừu thường được sử dụng nhiều, trong khi đó, ở ngôn ngữ tiếng Việt thì các tính ngữ chỉ về hoặc đề cập đến loài hổ thì lại xuất hiện rất nhiều.
Nguyên từ
Biểu trưng hay mở rộng là từ biểu tượng (còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu. Cụm từ ý nghĩa biểu tượng (epithet) được sử dụng rộng rãi như là một từ đồng nghĩa với tính kí hiệu. Trong các trường hợp này, khi hiện diện một tương quan giữa biểu đạt và nội dung, và đặc biệt nhấn mạnh trong ngữ cảnh này là tính quy ước thì là chức năng biểu tượng và các biểu tượng. Sự đối lập các biểu tượng với kí hiệu quy ước, sau khi nhấn mạnh trong biểu tượng có yếu tố hình hiệu (ikon). Theo một hệ thống phân loại khác thì biểu tượng được xác định như là một kí hiệu, mà ý nghĩa của nó là một kí hiệu loại khác hay thuộc ngôn ngữ khác.
Đối lập với định nghĩa đó là truyền thống giải thích biểu tượng như là sự biểu đạt kí hiệu cho một bản chất phi kí hiệu cao nhất và trừu tượng. Trong trường hợp thứ nhất ý nghĩa biểu tượng có tính chất lí tính rõ rệt và được sử dụng như một phương tiện để phiên dịch tương đồng bình diện biểu hiện sang bình diên nội dung. Chúng cần được phân biệt với các hồi ức chuyện cũ hay trích dẫn (điển cố), bởi vì trong các hiện tượng đó bình diện“bên ngoài của nội dung mà là một loại kí hiệu chỉ dẫn (index, chỉ hiệu), chỉ ra một văn bản còn rộng hơn mà nó ở vào quan hệ hoán dụ.
Cách tiếp nhận biểu tượng như thế chẳng phải ngẫu nhiên là nhóm biểu tượng chủ yếu có bản chất cổ sơ rất sâu sắc, và ngược lên đến thời đại chưa có chữ viết, khi các kí hiệu nhất định (và, thông thường, là cơ bản). Ký ức của biểu tượng cũng cổ sơ hơn ngữ cảnh văn bản phi biểu tượng, ngôn từ có tính chất không phải là kí hiệu quy ước, mà là biểu tượng. Biểu tượng khác biệt với các kí hiệu quy ước bởi sự có mặt của yếu tố biểu hình, bởi sự tương tự nhất định giữa các bình diện biểu hiện và nội dung. Cấu trúc của các biểu tượng của một nền văn hóa nào đó tạo nên hệ thống đồng hình và đồng chức năng của ký ức phát sinh của cá nhân. Những nghĩa hàm chỉ, nghĩa xã hội, nghĩa biểu cảm, nghĩa phản ánh và nghĩa thành ngữ có thể gộp chung lại dưới chung một loại nghĩa là nghĩa liên tưởng.
Ý nghĩa
Thành ngữ chứa các thành tố chỉ động vật là mảng đề tài phong phú và lí thú, thu hút được sự quan tâm, động vật được định nghĩa là Sinh vật có cảm giác và tự vận động được, người, thú, chim, sâu bọ đều là động vật. Trong đó có từ vựng về thành ngữ về nhóm chỉ các động vật khác như thú, chim, sâu bọ gọi chung là nhóm chỉ động vật. Thành ngữ có chứa thành tố chỉ động vật (thành ngữ động vật) được hiểu là những thành ngữ mà trong cấu tạo của chúng có những từ ngữ chỉ con vật được gọi là thành tố chỉ động vật. Đây là nhóm thành ngữ phản ánh chiều sâu văn hoá, thể hiện nét độc đáo trong tư duy, trong cách nhìn, cách cảm và lối nghĩ của mỗi dân tộc đối với hiện thực khách quan. Cùng chỉ một khái niệm, một hiện tượng, một trạng thái tình cảm nhưng mỗi dân tộc lại có cách lựa chọn những thành tố động vật khác nhau để diễn đạt, góp phần tạo nên nét tương đồng và dị biệt giữa nền văn hoá này với nền văn hoá khác.
Tính liên tưởng
Thành ngữ nói chung, nhóm thành ngữ này nói riêng được coi là tấm gương phản chiếu giá trị ngữ nghĩa–văn hoá và quan niệm nhân sinh độc đáo trong tâm hồn của người dân lao động. Tên gọi động vật là đơn vị từ ngữ nói chung, có ý nghĩa văn hoá nhất định, vì khi tên gọi động vật là thành tố trong các thành ngữ, nội dung ngữ nghĩa–văn hoá của các thành tố đó chính là việc liên tưởng chúng tới cái gì, là cách cảm nhận, cách đánh giá các con vật đó tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực. Các con vật với tên gọi của nó đã đi vào đời sống ngôn ngữ một cách tự nhiên nhất, ngày càng trở nên phong phú về mặt nhận thức và biểu hiện, thế giới động vật gắn bó, gần gũi với con người từ thuở khai thiên lập địa và mỗi tên gọi động vật thường gợi lên trong ý thức của người bản ngữ một sự liên tưởng nào đó, gắn liền với những thuộc tính, đặc điểm của con vật.
Liên tưởng là một trong những mối quan hệ cơ bản thể hiện rõ trong từ vựng ngữ nghĩa. Sự liên tưởng phụ thuộc vào những đặc điểm của sự vật mà từ đó định danh, hay nói cách khác, phụ thuộc vào những đặc điểm mà người bản ngữ đã quan sát mà nhìn nhận qua lăng kính của họ. Quá trình liên tưởng thường dẫn đến nghĩa bóng, nghĩa chuyển, thông qua một số phương thức như ẩn dụ, hoán dụ. Đây cũng là quá trình hình thành nghĩa biểu trưng từ tên gọi của một số động vật. Nó phản ánh cách cảm, lối nghĩ, cách đánh giá các sự vật, hiện tượng là tích cực hay tiêu cực, là tốt hay xấu, liên quan đến việc gán cho chúng những thuộc tính, những đặc điểm của con vật nào đó.
Nghĩa biểu trưng
Nghĩa biểu trưng là một trong những nghĩa văn hoá của từ ngữ chỉ động vật. Nó vừa có tính chất đặc thù của mỗi cộng đồng ngôn ngữ riêng biệt, vừa có tính chất phổ quát ở nhiều ngôn ngữ. Tiếp cận vấn đề nghĩa của thành ngữ động vật theo quan điểm ngữ nghĩa–văn hoá, coi nghĩa của từ là một phiến đoạn văn hoá nên cách nhìn nhận về vấn đề biểu trưng trong thành ngữ, có một số lớn thành tố chỉ động vật trong các thành ngữ mang nghĩa biểu trưng, nhất là khi những thành ngữ đó có dạng so sánh, còn có nhiều thành ngữ động vật khác rất khó hình dung ra tính biểu trưng của nó.
Nghĩa biểu trưng văn hoá hiện diện trong những từ chỉ động vật thông qua những hình ảnh động vật và những biểu trưng văn hoá của chúng, những từ chỉ động vật của mỗi thứ tiếng có những nét biểu trưng văn hoá rất đặc trưng do chịu sự chi phối của các nhân tố như hoàn cảnh địa lý, bối cảnh lịch sử, tôn giáo và phong tục tập quán nhưng biểu trưng ngữ nghĩa của nhóm từ có yếu tố động vật trong những văn hóa khác nhau đôi khi cũng có những nét tương đồng nhất định trong nghĩa biểu trưng văn hoá của lớp từ vựng chỉ động vật.
Hàm nghĩa
Nghĩa hàm chỉ là giá trị truyền đạt mà một từ, cụm từ, hay thành ngữ có bên cạnh ý nghĩa khái niệm thuần túy. Nghĩa hàm chỉ phụ thuộc vào các biến tố văn hóa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc thái độ xã hội hơn là ý nghĩa khái niệm mang lại. Nghĩa hàm chỉ của các từ rất khác nhau giữa các nền văn hóa. Nghĩa biểu cảm được truyền tải khi cảm xúc hay thái độ được biểu đạt trong ngôn ngữ. Trong những trường hợp khác, ý nghĩa biểu cảm được truyền đạt thông qua nghĩa khái niệm, nghĩa hàm chỉ, hay là nghĩa phong cách.
Theo nghĩa văn hàm là khi các từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ gợi lên một điều gì đó tức là đã gửi gắm hàm ý của một cộng đồng tộc người. Dù các thành tố chỉ động vật trong thành ngữ mang nghĩa biểu trưng điển hình (kiểu như ngu như bò hay chậm như rùa) hoặc chỉ phản ánh cách cảm nhận theo kiểu của cộng đồng người Việt (kiểu ngay lưng như chó trèo chạn, như đỉa phải vôi) mà không khắc hoạ nên hình tượng điển hình thì cả hai trường hợp này đều là kết quả của sự liên tưởng, liên hội theo cách riêng của một cộng đồng tộc người.
Để giải quyết thoả đáng tất cả những trường hợp trên của các thành tố chỉ động vật trong thành ngữ là quy chúng về một loại chung, đó là nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, bao gồm tất cả nội dung của nghĩa văn hoá này, ngoài nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, nghĩa của thành ngữ động vật còn mang tính phổ quát, thể hiện văn hoá chung của cộng đồng loài người, văn hoá chung liên tộc người và văn hoá đặc thù cho mỗi cộng đồng tộc người. Các hàm ý mà một cộng đồng tộc người muốn gửi gắm qua các thành ngữ có các thành tố chỉ động vật. Mỗi thành tố chỉ động vật đều có tính đa nghĩa, biểu hiện phong phú nội dung ngữ nghĩa văn hoá đặc thù tộc người, mỗi thành tố động vật được liên tưởng đến các đặc điểm, tính chất khác nhau, gắn liền với nhận thức và tư duy của mỗi dân tộc. Mặc dù cùng khai thác một đặc điểm, tính chất nào đó của con vật nhưng mỗi dân tộc lại có sự liên tưởng khác nhau.
Về mặt văn hoá, có thể chia hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ dân tộc thành hai loại là từ vựng mang hàm nghĩa văn hoá và từ vựng thông thường, không mang hàm nghĩa văn hoá. Sự khác biệt giữa từ vựng văn hoá và từ vựng thông thường có thể thấy ở chỗ từ vựng văn hoá mang thông điệp văn hoá dân tộc, từ vựng văn hoá có các mối quan hệ với văn hoá dân tộc, bao gồm văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, có khi là sự phản ánh trực tiếp văn hoá, có khi là biểu trưng của văn hoá, từ vựng văn hoá cũng có khi là các từ có mối quan hệ sâu xa với văn hoá, ví dụ các từ ngữ xuất hiện từ các điển tích văn hoá hay các từ xuất hiện trong tôn giáo.
Hàm nghĩa văn hoá hay phông văn hoá thường xuất hiện nhiều ở lớp từ vựng cơ bản, lớp từ vựng chỉ tên gọi động vật, thực vật, các từ thuộc trường từ vựng này rất hàm súc về ngữ nghĩa, đồng thời có sự biến đổi ngữ nghĩa rất phong phú trong lời nói, trong đó đáng chú ý là một số từ trong lớp từ vựng tên gọi động vật thân thuộc, gắn bó với cuộc sống của cộng đồng. Từ cách diễn đạt trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc, có thể thấy được quan niệm tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín ngưỡng tôn giáo của những dân tộc đó. Hàm nghĩa văn hoá tiềm ẩn sâu sắc trong từ vựng, đặc biệt các từ là tên gọi động vật.
Sự khác biệt
Tuy có nhiều cụm từ so sánh đều dùng chung hình ảnh của một loài vật, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, tiếng Việt và tiếng Anh luôn có những nét diễn tả và nhìn nhận khác biệt vì vậy, không phải lúc nào đối tượng ví von trong các thành ngữ cũng sẽ y nhau. Nguyên nhân của sự khác biệt này là tiếng Việt hay dùng những con vật quen thuộc và được ưa chuộng hơn như chó, mèo, chim, kiến nhưng văn hóa phương Tây lại chuộng những con vật liên quan đến săn bắn và du mục hơn như ngựa, cừu, đười ươi và cũng liên quan nhiều đến môi trường biển cả hơn, trong khi Việt Nam thường liên quan đến đồng ruộng, rừng rú.
Hiện tượng trống nghĩa cho thấy, nghĩa biểu trưng thể hiện trong các từ chỉ động vật của một ngôn ngữ này không phải lúc nào cũng hiện diện ở một ngôn ngữ khác, ví dụ như một số nét biểu trưng văn hoá của từ chỉ tồn tại trong tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt và ngược lại, nguyên nhân của sự khác biệt trong nghĩa biểu trưng văn hoá các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh cho thấy sự xuất hiện những khoảng trống trong ngôn ngữ này so với ngôn ngữ kia hiển nhiên là có liên quan đến đặc điểm hoạt động thực tiễn và kinh nghiệm của người bản ngữ, cấu trúc ý nghĩa của từ có liên hệ gần gũi với những yếu tố của nền văn hóa dân tộc như tôn giáo, huyền thoại, lịch sử, phong tục tập quán, cũng như môi trường địa lý nơi người bản ngữ sinh sống.
So sánh
Việt-Anh
So sánh nghĩa biểu trưng văn hoá của các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong đó có sự giống nhau. Người Việt Nam và người Anh gần như có sự hiểu biết giống nhau về bản năng tự nhiên và tập tính sinh sống của động vật, từ đó có những liên tưởng giống nhau, chẵng hạn như hai ngôn ngữ Việt và Anh đều có liên hội nghĩa văn hoá giống nhau về một số con vật như cáo, chim, vẹt, và sói.
Ý nghĩa biểu trưng sự liên hội | Trong tiếng Anh | Trong tiếng Việt |
---|---|---|
Trong văn hóa, sói là con thú tham lam và hung dữ và gian ác, chuyên bắt nạt con vật nhỏ yếu. Điều này có sự tương đồng trong ngôn ngữ Việt và Anh | Trong tiếng Anh có tục ngữ: "Wolf in sheep's clothing" nghĩa là "sói đội lốt cừu" ý nói ai đó giả bộ là người tốt, hành động nhân từ nhưng ngụ ý hiểm độc; hoặc cụm từ "Big Bad Wolf" (con sói già gian ác) | Trong tư duy người Việt Nam có tìm thấy các thành ngữ như "lòng lang dạ sói"; "tránh kẻ gian, gặp sói già", "đế quốc sài lang", "trên rừng thì hổ lang dưới làng thì mặt rỗ". |
Con cáo có thể được sử dụng để miêu tả một người nào đó gian giảo, dối trá, láu cá, ranh vặt ở cả hai ngôn ngữ Việt và Anh | Đề cập đến sự xảo trá, người Anh hay nói "... is sly as a fox" (xảo quyệt như con cáo) hay "as cunning as a fox" (ranh mãnh như cáo) | Người Việt cũng dùng hình ảnh con cáo trong câu như "Nó là con cáo xảo quyệt" hay mắng những người gian manh quỷ quyệt là "đồ cáo già" hay câu "mèo già hóa cáo", hay câu chửi "đồ con hồ ly tinh" (chỉ về những cô gái chuyên giựt chồng người). |
Hình tượng con lợn trong hai nền văn hóa là khá tương đồng, chỉ về sự miệt thị thói phàm ăn và bề ngoài mập phệ | Trong tiếng Anh có các từ "as greedy as a pig" (tham ăn như lợn); "make a pig of oneself" (ăn uống thô tục); "as fat as a pig" (béo như lợn) | Trong tiếng Việt cũng có những từ lạ lỵ tương tự như: Ăn như lợn (Chế diễu ai đó ham ăn, phàm ăn, hư ăn, háu ăn); đồ con lợn (một câu chửi), đồ mặt lợn, như con lợn, đồ Trư Bát Giới |
Hình tượng con khỉ trong hai nền văn hóa cũng có nét tương đồng và thiên về sự miệt thị về tính láu táu, hay nhảy nhót | Trong tiếng Anh có câu "as tricky as a monkey" (tinh ranh như khỉ) hay câu "as agile as a monkey" (nhanh nhẹn như khỉ) và có từ “monkey job” (trò khỉ); khỉ là một hình ảnh không đẹp, còn dùng để phân biệt chủng tộc khi người ta làm bộ miệng hú, rồi đấm ngực, vung tay, nhảy nhót như khùng và ném chuối vào người khác; nguyên đệ nhất Phu nhân Michelle Obama cũng từng bị ví là khỉ đột | Ở Việt Nam, điểm chung hai miền Nam Bắc là dùng từ "khỉ" để diễn tả cái ý "không ra gì" (miền Nam có nhiều cách ghép đôi như "khỉ cùi", "khỉ khô", "khỉ mốc"), “rõ khỉ”; có nhiều từ được dùng để chỉ khỉ: hầu, khỉ, khởi, khẹc, khọn, tườu, nỡm, bù dù, đười ươi, vượn và nghề đều gợi lên ấn tượng về thói láu táu, nghịch ngợm, phá phách và phét lác của chúng. Nhiều lời mắng liên quan đến khỉ xuất hiện khá nhiều: “Đồ khỉ!”, “Đồ khỉ gió!”, “Đồ con tườu!”, “Đồ con khẹc!”, “Đồ nỡm!”, “Đồ con nỡm!”, “Đồ bú dù!”, “Làm trò khỉ!”, “Đồ khỉ đột!”, “Khỉ mốc, đừng tưởng bở!”. Gặp phải chuyện chẳng vừa ý thì hay chửi “Khỉ thật!”, “Khỉ họ!”, “Bố khỉ”; khi thất vọng, bực bội khi việc chưa xong: “Chẳng được việc khỉ gì cả”, “Chẳng ra cái khỉ khô gì cả!”, thái độ cau có, khó chịu: “Đồ khỉ dính mắm tôm”, “Nhăn nhó khi khỉ dính mắm tôm”, “Mặt nhăn như khỉ”, “Nhăn nhó như khỉ ăn gừng”, “Khó tính như con nỡm”, "cái con khỉ"; chê bai những việc làm chẳng đi đến đâu, chỉ làm mọi việc trở nên rối rắm: “Giết gà dọa khỉ”, “Rung cây nhát khỉ”, “dạy khỉ leo cây”; "nuôi khỉ dòm nhà" |
Hình tượng chim muông là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp | Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) hay “a wild goose chase” ý nói về cuộc tìm kiếm vô vọng | Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "cá bể chim ngàn", "cá nước chim trời", "chim trời cá bể (biển)", "như chim đang được sổ lồng tung cánh", "như chim sổ lồng", hay "Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông" (ca dao). |
Vẹt là loài chim có thể bắt chước tiếng người, cả người Anh và người Việt Nam đều sử dụng từ vẹt (parrot) để chỉ những người học ra rả, học thuộc làu làu hoặc nhắc lại lời của người khác cũng như ý tưởng của người khác mà không thực sự hiểu ý đồ trong câu nói và ý tưởng đó là gì | Trong tiếng Anh có câu: "under the old system pupils had to stand to attention and repeat lessons parrot fashion" (Theo lối giáo dục cũ trước kia, học sinh thường phải đứng nghiêm và nhắc lại bài như con vẹt) | Người Việt Nam cũng có những liên hội tương tự: "nhại như vẹt"; "học vẹt"; "nói như vẹt", "học không hiểu, học không hành là học như vẹt" hay câu chế giễu "nói như vẹt. |
Tham khảo
- Reaney, P. H.; Wilson, R. M. (1997). A Dictionary of English Surnames. Oxford University Press. ISBN 0-198-60092-5.