Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Biểu trưng loài vật”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 31: Dòng 31:
|[[Hình tượng loài chim trong văn hóa|Hình tượng chim muông]] là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp|| Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "''Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe''" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, tuyệt đối an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) || Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "''cá bể chim ngàn''", "''cá nước chim trời''", "''chim trời cá bể (biển)''", "''như chim đang được sổ lồng tung cánh''", "''như chim sổ lồng''", hay "''Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông''" (ca dao).
|[[Hình tượng loài chim trong văn hóa|Hình tượng chim muông]] là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp|| Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "''Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe''" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, tuyệt đối an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) || Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "''cá bể chim ngàn''", "''cá nước chim trời''", "''chim trời cá bể (biển)''", "''như chim đang được sổ lồng tung cánh''", "''như chim sổ lồng''", hay "''Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông''" (ca dao).
|-
|-
| [[Vẹt]] là loài chim [[Động vật biết nói|có thể bắt chước tiếng người]], cả người Anh và người Việt Nam đều sử dụng từ vẹt (parrot) để chỉ những người học ra rả, học thuộc làu làu hoặc nhắc lại lời của người khác cũng như ý tưởng của người khác mà không thực sự hiểu ý đồ trong câu nói và ý tưởng đó là gì||Trong tiếng Anh có câu: "''under the old system pupils had to stand to attention and repeat lessons parrot fashion''" (Theo lối giáo dục cũ trước kia, học sinh thường phải đứng nghiêm và nhắc lại bài như con vẹt)|| Người Việt Nam cũng có những liên hội tương tự: "''nhại như vẹt''"; "''học vẹt''"; "''nói như vẹt''", "''học không hiểu, học không hành là học như vẹt''".
| [[Vẹt]] là loài chim [[Động vật biết nói|có thể bắt chước tiếng người]], cả người Anh và người Việt Nam đều sử dụng từ vẹt (parrot) để chỉ những người học ra rả, học thuộc làu làu hoặc nhắc lại lời của người khác cũng như ý tưởng của người khác mà không thực sự hiểu ý đồ trong câu nói và ý tưởng đó là gì||Trong tiếng Anh có câu: "''under the old system pupils had to stand to attention and repeat lessons parrot fashion''" (Theo lối giáo dục cũ trước kia, học sinh thường phải đứng nghiêm và nhắc lại bài như con vẹt)|| Người Việt Nam cũng có những liên hội tương tự: "''nhại như vẹt''"; "''học vẹt''"; "''nói như vẹt''", "''học không hiểu, học không hành là học như vẹt''" hay câu chế giễu "''nói như vẹt''.
|-
|-
|}
|}

Phiên bản lúc 02:09, ngày 26 tháng 4 năm 2020

Biểu trưng loài vật (Animal epithet) là một tính ngữ (tên gọi, cụm từ) văn học được sử dụng để chỉ cho một người hoặc một nhóm, bằng cách gắn kết, liên tưởng với một số phẩm chất, đặc tính, yếu tố của một động vật (tính ký hiệu liên tưởng đến động vật). Trong lịch sử, con người thường liên hội tâm tư và tình cảm với các loại động vật khác nhau tương ứng theo đặc điểm của từng con vật đó, ví dụ, đặc điểm ngoại hình (hình thức, kích cỡ, màu sắc), thuộc tính bản năng, thức ăn, môi trường sống, tập quán sinh sống vì vậy, tên hay hình ảnh của con vật đó có những liên hội về văn hóa. Động vật ở vị thế này được phong cho ý nghĩa tôn giáo và với sức mạnh biểu tượng và ẩn dụ.

Các biểu tượng hay biểu trưng này có thể được xây dựng dưới dạng trào phúng, so sánh rõ ràng con người với động vật được biểu trưng, hoặc như phép ẩn dụ. Các biểu trưng động vật có thể mang tính miệt thị, dễ gây xúc phạm và đôi khi chúng được sử dụng trong các chiến dịch chính trị. Phúng dụ về loài vật và ẩn dụ đã được sử dụng từ thời cổ điển, ví dụ như HomerVirgil để nâng cao hiệu ứng trong văn học, và tóm tắt các khái niệm phức tạp một cách chính xác. Danh xưng, tên họ, địa danh gắn với loài vật được ghi nhận ở các quốc gia khác nhau, có thể là hoán dụ, đặt tên cho nghề nghiệp của một người, nói chung là trong thời trung cổ; địa danh, đặt tên nơi một người sống; hoặc biệt danh, so sánh người đó thuận lợi hoặc bằng cách khác với loai vật được đặt tên, một biểu trưng loài vật trong tiếng Anh thì yếu tố thành tố con cừu thường được sử dụng nhiều.

Nguyên từ

Biểu trưng hay mở rộng là từ biểu tượng (còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu. Cụm từ ý nghĩa biểu tượng (epithet) được sử dụng rộng rãi như là một từ đồng nghĩa với tính kí hiệu. Trong các trường hợp này, khi hiện diện một tương quan giữa biểu đạt và nội dung, và đặc biệt nhấn mạnh trong ngữ cảnh này là tính quy ước thì là chức năng biểu tượng và các biểu tượng. Sự đối lập các biểu tượng với kí hiệu quy ước, sau khi nhấn mạnh trong biểu tượng có yếu tố hình hiệu (ikon). Theo một hệ thống phân loại khác thì biểu tượng được xác định như là một kí hiệu, mà ý nghĩa của nó là một kí hiệu loại khác hay thuộc ngôn ngữ khác.

Đối lập với định nghĩa đó là truyền thống giải thích biểu tượng như là sự biểu đạt kí hiệu cho một bản chất phi kí hiệu cao nhất và trừu tượng. Trong trường hợp thứ nhất ý nghĩa biểu tượng có tính chất lí tính rõ rệt và được sử dụng như một phương tiện để phiên dịch tương đồng bình diện biểu hiện sang bình diên nội dung. Chúng cần được phân biệt với các hồi ức chuyện cũ hay trích dẫn (điển cố), bởi vì trong các hiện tượng đó bình diện“bên ngoài của nội dung mà là một loại kí hiệu chỉ dẫn (index, chỉ hiệu), chỉ ra một văn bản còn rộng hơn mà nó ở vào quan hệ hoán dụ.

Cách tiếp nhận biểu tượng như thế chẳng phải ngẫu nhiên là nhóm biểu tượng chủ yếu có bản chất cổ sơ rất sâu sắc, và ngược lên đến thời đại chưa có chữ viết, khi các kí hiệu nhất định (và, thông thường, là cơ bản). Ký ức của biểu tượng cũng cổ sơ hơn ngữ cảnh văn bản phi biểu tượng, ngôn từ có tính chất không phải là kí hiệu quy ước, mà là biểu tượng. Biểu tượng khác biệt với các kí hiệu quy ước bởi sự có mặt của yếu tố biểu hình, bởi sự tương tự nhất định giữa các bình diện biểu hiện và nội dung. Cấu trúc của các biểu tượng của một nền văn hóa nào đó tạo nên hệ thống đồng hình và đồng chức năng của ký ức phát sinh của cá nhân. Những nghĩa hàm chỉ, nghĩa xã hội, nghĩa biểu cảm, nghĩa phản ánh và nghĩa thành ngữ có thể gộp chung lại dưới chung một loại nghĩa là nghĩa liên tưởng.

Ý nghĩa

Nghĩa biểu trưng văn hoá hiện diện trong những từ chỉ động vật thông qua những hình ảnh động vật và những biểu trưng văn hoá của chúng, những từ chỉ động vật của mỗi thứ tiếng có những nét biểu trưng văn hoá rất đặc trưng do chịu sự chi phối của các nhân tố như hoàn cảnh địa lý, bối cảnh lịch sử, tôn giáo và phong tục tập quán nhưng biểu trưng ngữ nghĩa của nhóm từ có yếu tố động vật trong những văn hóa khác nhau đôi khi cũng có những nét tương đồng nhất định trong nghĩa biểu trưng văn hoá của lớp từ vựng chỉ động vật.

Nghĩa hàm chỉ là giá trị truyền đạt mà một từ, cụm từ, hay thành ngữ có bên cạnh ý nghĩa khái niệm thuần túy. Nghĩa hàm chỉ phụ thuộc vào các biến tố văn hóa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc thái độ xã hội hơn là ý nghĩa khái niệm mang lại. Nghĩa hàm chỉ của các từ rất khác nhau giữa các nền văn hóa. Nghĩa biểu cảm được truyền tải khi cảm xúc hay thái độ được biểu đạt trong ngôn ngữ. Trong những trường hợp khác, ý nghĩa biểu cảm được truyền đạt thông qua nghĩa khái niệm, nghĩa hàm chỉ, hay là nghĩa phong cách.

Tuy có nhiều cụm từ so sánh đều dùng chung hình ảnh của một loài vật, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, tiếng Việt và tiếng Anh luôn có những nét diễn tả và nhìn nhận khác biệt vì vậy, không phải lúc nào đối tượng ví von trong các thành ngữ cũng sẽ y nhau. Nguyên nhân của sự khác biệt này là tiếng Việt hay dùng những con vật quen thuộc và được ưa chuộng hơn như chó, mèo, chim, kiến nhưng văn hóa phương Tây lại chuộng những con vật liên quan đến săn bắn và du mục hơn như ngựa, cừu, đười ươi và cũng liên quan nhiều đến môi trường biển cả hơn, trong khi Việt Nam thường liên quan đến đồng ruộng, rừng rú.

Hiện tượng trống nghĩa cho thấy, nghĩa biểu trưng thể hiện trong các từ chỉ động vật của một ngôn ngữ này không phải lúc nào cũng hiện diện ở một ngôn ngữ khác, ví dụ như một số nét biểu trưng văn hoá của từ chỉ tồn tại trong tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt và ngược lại, nguyên nhân của sự khác biệt trong nghĩa biểu trưng văn hoá các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh cho thấy sự xuất hiện những khoảng trống trong ngôn ngữ này so với ngôn ngữ kia hiển nhiên là có liên quan đến đặc điểm hoạt động thực tiễn và kinh nghiệm của người bản ngữ, cấu trúc ý nghĩa của từ có liên hệ gần gũi với những yếu tố của nền văn hóa dân tộc như tôn giáo, huyền thoại, lịch sử, phong tục tập quán, cũng như môi trường địa lý nơi người bản ngữ sinh sống.

So sánh

Việt-Anh

So sánh nghĩa biểu trưng văn hoá của các từ chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong đó có sự giống nhau. Người Việt Nam và người Anh gần như có sự hiểu biết giống nhau về bản năng tự nhiên và tập tính sinh sống của động vật, từ đó có những liên tưởng giống nhau, chẵng hạn như hai ngôn ngữ Việt và Anh đều có liên hội nghĩa văn hoá giống nhau về một số con vật như cáo, chim, vẹt, và sói.

Ý nghĩa biểu trưng sự liên hội Trong tiếng Anh Trong tiếng Việt
Trong văn hóa, sói là con thú tham lam và hung dữ và gian ác, chuyên bắt nạt con vật nhỏ yếu. Điều này có sự tương đồng trong ngôn ngữ Việt và Anh Trong tiếng Anh có tục ngữ: "Wolf in sheep's clothing" nghĩa là "sói đội lốt cừu" ý nói ai đó giả bộ là người tốt, hành động nhân từ nhưng ngụ ý hiểm độc; hoặc cụm từ "Big Bad Wolf" (con sói già gian ác) Trong tư duy người Việt Nam có tìm thấy các thành ngữ như "lòng lang dạ sói"; "tránh kẻ gian, gặp sói già", "đế quốc sài lang", "trên rừng thì hổ lang dưới làng thì mặt rỗ".
Con cáo có thể được sử dụng để miêu tả một người nào đó gian giảo, dối trá, láu cá, ranh vặt ở cả hai ngôn ngữ Việt và Anh Đề cập đến sự xảo trá, người Anh hay nói "... is sly as a fox" (xảo quyệt như con cáo) Người Việt cũng dùng hình ảnh con cáo trong câu như "Nó là con cáo xảo quyệt" hay mắng những người gian manh quỷ quyệt là "đồ cáo già" hay câu "mèo già hóa cáo", hay câu chửi "đồ con hồ ly tinh" (chỉ về những cô gái chuyên giựt chồng người).
Hình tượng chim muông là những loài tự do bay liệng giữa trời, có thể bay đến bất cứ nơi nào nên chúng là biểu trưng cho chủ thể có cuộc sống tự do phóng khoáng, nay đây mai đó, không bị bó buộc ở một nơi, khiến khó tìm, khó gặp Trong tiếng Anh có thể gặp câu: "Bring the child down to me for a fortnight. I have a huge old graden where he can be as free as a bird and perfectly safe" (nghĩa là: Mang thằng bé đến chỗ tôi chơi nửa tháng, tôi có một khu vườn rộng, tuyệt đối an toàn, cho nó tha hồ bay nhảy) Trong tiếng Việt có thể thấy cụm từ như "cá bể chim ngàn", "cá nước chim trời", "chim trời cá bể (biển)", "như chim đang được sổ lồng tung cánh", "như chim sổ lồng", hay "Tìm em như thể tìm chim/Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông" (ca dao).
Vẹt là loài chim có thể bắt chước tiếng người, cả người Anh và người Việt Nam đều sử dụng từ vẹt (parrot) để chỉ những người học ra rả, học thuộc làu làu hoặc nhắc lại lời của người khác cũng như ý tưởng của người khác mà không thực sự hiểu ý đồ trong câu nói và ý tưởng đó là gì Trong tiếng Anh có câu: "under the old system pupils had to stand to attention and repeat lessons parrot fashion" (Theo lối giáo dục cũ trước kia, học sinh thường phải đứng nghiêm và nhắc lại bài như con vẹt) Người Việt Nam cũng có những liên hội tương tự: "nhại như vẹt"; "học vẹt"; "nói như vẹt", "học không hiểu, học không hành là học như vẹt" hay câu chế giễu "nói như vẹt.

Tham khảo

  • Reaney, P. H.; Wilson, R. M. (1997). A Dictionary of English Surnames. Oxford University Press. ISBN 0-198-60092-5.