Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đỗ Thanh Nhơn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Phò trợ Nguyễn Phúc Thuần: Alphama Tool, General fixes
Không có tóm lược sửa đổi
 
(Không hiển thị 30 phiên bản của 18 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật phong kiến
'''Đỗ Thanh Nhơn''' (? - [[1781]]) là một danh tướng [[Việt Nam]] cuối [[thế kỷ 18]] dưới thời chúa [[Nguyễn Phúc Ánh]]. Cùng với [[Võ Tánh]], [[Châu Văn Tiếp]], ông được người đương thời xưng tụng là "Gia Ðịnh tam hùng".
| tên gốc = 杜清仁
| hậu tố = ''[[Gia Định tam hùng]]''
}}
 
'''Đỗ Thanh Nhơn''' (? - [[1781]]) là một danh tướng [[Việt Nam]] cuối [[thế kỷ 18XVIII]] dưới thời chúa [[Nguyễn Phúc Ánh]]. Cùng với [[Võ Tánh]], [[Châu Văn Tiếp]], ông được người đương thời xưng tụng là "Gia ÐịnhĐịnh tam hùng".
 
==Thân thế==
Đỗ Thanh Nhơn ({{Hn|ch=杜清仁}})<ref>[[Trần Trọng Kim]] (1919), [[s:Việt Nam sử lược/Quyển II/Tự chủ thời đại/Chương VIII|Việt Nam sử lược]].</ref> hay '''Đỗ Thanh Nhân''' hoặc '''Đỗ Thành Nhơn''', là người huyện Hương Trà, phủ [[Thừa Thiên]]. Sau dời về trấn [[Phiên An]] trong [[Miền Nam Việt Nam|Nam]].
 
Ông sinh vào năm nào không rõ, chỉ biết khi Định vương [[Nguyễn Phúc Thuần]] còn ở [[Phú Xuân]], ông chỉ là võ quan bậc thấp, chức Hữu đội trưởng.
Hàng 8 ⟶ 13:
==Sự nghiệp==
===Phò trợ Nguyễn Phúc Thuần===
Năm [[1771]], anh em [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] hiệu triệu dân chúng: "Đánh đổ [[Trương Phúc Loan]] và ủng hộ [[Nguyễn Phúc Dương|Hoàng tôn Dương]], Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo" ,<ref>Trích từ website: [http://nhantai.org.vn/Desktop.aspx/Tin-Tuc/Nhan_tai_xua_va_nayNhan_taNhân&#x20;tài&#x20;xưa&#x20;và&#x20;nay:&#x20;Nguyễn&#x20;Huệi_xua_va_nay/Nguyen_Hue/ Nhân tài xưa và nay: Nguyễn Huệ].{{Liên kết hỏng|url=}}</ref>, để phất cờ khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh, đánh chiếm nhiều nơi thuộc quyền kiểm soát của [[chúa Nguyễn]].
 
Năm [[1775]], bị quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] và tướng [[Bắc Hà]] là [[Hoàng Ngũ Phúc]] rượt đuổi, [[Nguyễn Phúc Thuần]] chạy đến Trấn Biên ,<ref>Vùng tương ứng với đất các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai và Vũng Tàu-Bà Rịa ngày nay (giải thích của GS. Nguyễn Khắc Thuần, tr. 75).</ref>, rồi ra lệnh triệu tướng [[Tống Phước Hiệp]]. Nhưng vì quân cứu viện không đến kịp, nhân cơ hội, Đỗ Thanh Nhơn gọi [[Nguyễn Huỳnh Đức]], Trần Búa, Đỗ Vàng (Hoành), Đỗ Kỵ (Ky), Vũ Nhàn, Đỗ Bảng... cùng họp binh ở Ba Giồng (chữ Hán là Tam Phụ)<ref>Ba Giồng là ba gò đất cổ, chạy xuyên qua 2 huyện Kiến Hưng, Kiến Đăng, thuộc địa hạt trấn Định Tường. Ở đây, phía trước có sông dài ngăn trở, phía sau là vùng đồng lầy cỏ rậm. Nhơn lấy nơi này làm nơi đóng quân chứa lương, khi xảy ra việc nguy cấp có thể ẩn trú được. Nhà văn [[Sơn Nam]] cho biết thêm: Ba Giồng gồm một phần [[Long An]] ngày nay, ăn trọn vùng [[Mỹ Tho]], bờ [[sông Tiền]]: không úng vào mùa lũ lụt, không kiệt mùa hạn, ruộng phì nhiêu, nước ngọt quanh năm, thêm vườn cây ăn trái, khí hậu tốt, thủy lợi gần như hoàn chỉnh trong buổi đầu nhờ sông rạch thiên nhiên. [[Nguyễn Ánh]] và [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] cố tranh chấp cùngvùng đất giàu tài lực, nhân lực nầy, ai chiếm được là có thể nắm phần thắng cuối cùng. (''Đình miếu & lễ hội dân gian'', NxbNhà xuất bản [[Thành phố Hồ Chí Minh]], tr. 250.</ref> được hơn 30003.000 người, xưng là "Đông Sơn thượng tướng quân",<ref>Đỗ Thanh Nhơn xưng là ''Đông Sơn đại tướng quân'' trước tiên để tỏ rõ sự đối nghịch hết sức sâu sắc với [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], như Đông đối với Tây.</ref>, rồi đi cứu giá.<ref name=":0">Đại Nam thực lục, bản dịch, nhà xuất bản Giáo Dục, tập 1.</ref>
 
Từ Ba Giồng, Đỗ Thanh Nhơn đưa quân tiến lên đánh úp quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] do tướng [[Nguyễn Lữ]] chỉ huy, thắng luôn mấyba trận. [[Nguyễn Lữ]] biết không địch nổi, bèn lấy thóc trong kho chở hơn hai trăm thuyền chạy về [[Quy Nhơn]]. Đỗ Thanh Nhơn lấy lại được [[Gia Định]] (lần thứ nhất) bèn đón chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]] trở lại [[Bến Nghé]], [[Gia Định]]. Do lập được đại công, Đỗ Thanh Nhơn được chúa Nguyễn cho giữ chứchàm chưởngChưởng dinh Ngoại hữu, phong tước ''Phương quận công''. Tướng sĩ quân Đông Sơn đều được ban thưởng theo thứ bậc.<ref name=":0" />
 
===Kết oán với Lý Tài===
Hàng 23 ⟶ 28:
 
===Trả thù Lý Tài===
[[Tháng 11]] năm [[Bính Thân]] ([[1776]])<ref>Ghi theo ''Việt sử tân biên'' (Quyển 3, tr. 337) và website Nguyễn Phước tộc [http://nguyenphuoctoc.net/vuong-pha/10a_nguyenphucthuan.htm] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20080115184439/http://nguyenphuoctoc.net/vuong-pha/10a_nguyenphucthuan.htm|date=ngày 15 tháng 1 năm 2008}}. [[Trịnh Hoài Đức]] ghi năm Ất Mùi (1775) [http://www.phattuvietnam.net/index.php?nv=News&at=article&sid=2214]</ref> do sức ép của [[Lý Tài]], chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]] làm lễ nhường ngôi cho cháu ruột mình là [[Nguyễn Phúc Dương]] (Tân Chính vương, {{Hn|ch=新 政 王}}). Lý Tài được Nguyễn Phúc Dương phong là Bảo giá đại tướng quân. Đỗ Thanh Nhân vì đang chống đối Lý Tài nên không đến dự lễ nhường ngôi, Tân Chính Vương phong cho Phạm Công Lý giữ chức Ngoại hữu thay Nhân.<ref name=":0" />
 
Nguyễn Ánh biết Lý Tài là người kiêu ngạo ngang ngược, khó kiềm chế, nói với chúa xin đi Tam Phụ (Ba Giòng) chiêu dụ quận Đông Sơn để mưu đồ khôi phục. Lý Tài nghe tin, đem quân đón ép chúa đi Dầu Mít. Tân Chính vương không thể ngăn được, bèn khiến Trương Phước Dĩnh theo hộ giá. Ngày hôm sau lại rước giá trở về Sài Gòn.<ref name=":0" />
Năm [[Đinh Dậu]] ([[1777]]), tướng [[Nguyễn Huệ]] đem quân vào đánh chiếm [[Gia Định]] lần thứ 2. Quân Tây Sơn mạnh mẽ đánh bại quân Nguyễn nhiều trận, sau đó truy lùng gắt gao, cả [[Nguyễn Phúc Thuần]] và [[Nguyễn Phúc Dương]] cùng một số quan lại đã bị bắt và bị giết năm đó.
 
Năm Tài[[Đinh Dậu]] ([[Bến1777]]), Nghétướng [[Nguyễn Huệ]] đem quân giaovào chiếnđánh mấychiếm [[Gia Định]] lần vớithứ thủyhai. Tân Chính Vương sai Lý Tài đem Nghĩa Hòa quân củara [[NguyễnHóc HuệMôn]] đều(tên thấtđất bạithuộc Gia Định) cự chiến, chém được tuần sát địch là Tuyên (không rõ họ), quân Tây Sơn phải hơi lui. HoảngBấy loạngiờ, vừa lúc [[Trương Phước Thận]] từ Cần Vọt đem quân đến cứu. Lý Tài đemxa thấy bóng cờ, ngờ là quân Đông Sơn đến đánh úp mình, tự rút quân về. Quân Tây Sơn thừa thế đuổi theo. Quân Lý Tài hoảng loạn chạy về Ba Giồng (Tam Phụ) thì bị quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết toàn bộ.<ref name=":0" />
 
=== Phò trợ Nguyễn Ánh ===
Tân Chính vương [[Nguyễn Phúc Dương]] được thêm quân [[Trương Phước Thận]], bèn lui giữ Tranh Giang (thuộc tỉnh Gia Định).
 
Chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]] chạy đến Đăng Giang (thuộc tỉnh Định Tường). Nguyễn Ánh đem 4.000 quân Đông Sơn đến cứu viện. Chúa bèn dựng cờ Đông Sơn thượng tướng quân rồi đem quân đến Tài Phụ (Tài Phụ hay Giòng Tài là một trong ba giòng thuộc tỉnh Gia Định).
 
Chúa bảo Tân Chính vương rằng: “''Phía sau Tranh Giang vương tự đương lấy, phía trước Tài Phụ thì ta cáng đáng''”, rồi sai các quân quay lưng về phía sông mà bày trận để chờ.
 
Mùa hạ, tháng 4, Đinh dậu [[1777]], quân Tây Sơn đánh Tài Phụ. Chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]] đi Long Hưng (tên đất thuộc tỉnh Định Tường). Gặp mưa to, Tây Sơn đuổi không kịp. Đỗ Thanh Nhân từ Giá Khê ([[Rạch Giá]]) dẫn quân lại. Chúa lại đi Cần Thơ (tên đất, tức thủ sở đạo Trấn Giang, Mạc Thiên Tứ từ khi thất thủ Hà Tiên lui đóng ở đấy), hợp quân với Mạc Thiên Tứ. Chúa thấy binh lực của Thiên Tứ ít và yếu, khó chống được Tây Sơn, bèn sai Đỗ Thanh Nhân cùng thuộc hạ là Cai đội Nguyễn Quân lẻn đi Bình Thuận gọi Chu Văn Tiếp và Trần Văn Thức vào cứu.
 
Quân Tây Sơn đánh Tranh Giang. Tân Chính vương lùi giữ Trà Tân (Bến Trà, tên xã thuộc tỉnh Định Tường). Chưởng cơ Thiêm Lộc đem thủy binh đón đến Vương ở đất Ba Việt (Ba Vát). Vương sai Tống Phước Hựu giữ Mỹ Lung, Thiêm Lộc giữ Hương Đôi (Ba Việt, Mỹ Lung, Hương Đôi đều là tên đất, thuộc tỉnh Vĩnh Long). Tống Phước Hòa quản lĩnh các quân hộ vệ mặt trận để chống Tây Sơn.
 
Tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ vào chiếm được Sài Gòn, giết tham tán Nguyễn Đăng Trường. Tháng 7, Tham tán Trần Văn Thức từ Phú Yên vào cứu viện, đến Bình Thuận thị bị quân Tây Sơn đánh bại. Tây Sơn đánh Ba Việt, giết được Thiếu phó Tôn Thất Chí, Nội tả Nguyễn Mẫn, Chưởng cơ Tống Phước Hựu. Chỉ còn mỗi Chưởng cơ Tống Phước Hòa chống giữ. Tháng 8, tướng Tây Sơn Nguyễn Huệ có thêm quân, tiến đánh Hương Đôi. Chưởng cơ Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt. Tân Chính Vương định bàn kế cũng Châu Văn Tiếp chạy ra Bình Thuận nhưng không được. Chưởng cơ Tống Phước Hòa tự vẫn, Tân Chính Vương cùng cận thần bị Tây Sơn bắt giết.
 
Thái-thượng-vương [[Nguyễn Phúc Thuần]] bỏ chạy về Long Xuyên (thuộc tỉnh Hà Tiên) nhưng tới tháng 9 năm 1777 cũng bị Tây Sơn bắt giết.<ref name=":0" />
 
Không thể để ngôi chúa bỏ trống, đầu năm [[Mậu Tuất]] ([[1778]]), [[Nguyễn Phúc Ánh]], cháu họ chúa Nguyễn Phúc Thuần, khi này mới 17 tuổi được các tướng tôn làm Đại nguyên súysoái, Nhiếp quốc chính.<ref>Nguyễn Ánh chưa chính thức xưng vưa, chỉ xưng giữ quyền coi việc nước.</ref> Kể từ đó, ôngĐỗ Thanh Nhơn luôn được cầu cận để phò tá Nguyễn Phúc Ánh.<ref name=":0" />
 
===Bị sát hại===
CũngNăm ngay năm này ([[1778]]), Đỗ Thanh Nhơn cùng [[Lê Văn Quân]] giết Tư Khấu Oai ở [[sông Bến Nghé]], rồi cùng Hồ Văn Lân đi [[Chân Lạp]]. Ở đây, ông giết Nặc Ong Vinh, tôn con là[[Ang Eng|Nặc Ong ẨnẤn]] lên ngôi [[Chân Lạp]], để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ, còn ông thì kéo quân về lại [[Gia Định]].
Không thể để ngôi chúa bỏ trống, đầu năm [[Mậu Tuất]] ([[1778]]), [[Nguyễn Phúc Ánh]], cháu chúa Nguyễn Phúc Thuần, khi này mới 17 tuổi được các tướng tôn làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính. Kể từ đó, ông luôn được cầu cận để phò tá Nguyễn Phúc Ánh.
 
[[Mùa xuân]] năm [[Canh Tý]] ([[1780]]), Nguyễn Ánh chính thức xưng đế, Đỗ Thanh Nhơn được phong làm Ngoại hữu phụ chính Thượng tướng quân, tước Quận công.
 
Mùa hạ, tháng 4 năm 1780, Nguyễn Ánh sai Đỗ Thanh Nhân đánh phủ Trà Vinh. Người gốc Chân Lạp đến ở Trà Vinh đã lâu thành dân nội thuộc, hằng năm cung nộp phú thuế. Nhân lúc loạn Tây Sơn, thủ lĩnh là [[Ốc nha]] Suất mưu làm phản. Vua sai đem quân đi đánh. [[Ốc nha]] Suất giữ vững lũy chống lại. Nơi ấy rừng sâu chằm lớn, rậm rạp um tùm, Suất dựa địa thế hiểm trở để chống, lấy nỏ khoẻ làm món sở trường, quan quân đánh không được. Vua bèn sai Thanh Nhân đốc chiến, Dương Công Trừng thuộc theo. Công Trừng sai các quân dùng vòng sắt móc liền các chiến thuyền với nhau, bắc sàn ở trên, kèm dựng cây chuối để đỡ tên đạn, nhân nước thủy triều lên cho thuyền đến sát lũy để đánh. Giặc mất thế hiểm vỡ chạy. Thanh Nhân đem quân tinh nhuệ đuổi đánh, chặt phá cây rừng, mở thông đường lối, lại đặt phục binh trong rừng, bốn bề nổ súng. Suất cùng đường bị quan binh bắt được. Thanh Nhân chiêu dụ dân chúng trở về làm ăn.<ref name=":0" />
 
Mùa thu, tháng 7, sai các quân đóng binh thuyền. Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy thứ gỗ nam [[Kiền kiền Phú Quốc|kiền kiền]] để đóng thuyền trường đà bánh lái dài, trên gác sàn chiến đấu, hai bên dựng phên tre che thủy binh ở dưới để cho chuyên sức mà chèo, còn trên thì bày bộ binh để xung trận mà đánh. Do đó đi đường biển thuận lợi mà nghề thủy quân sở trường càng tinh thêm.<ref name=":0" />
Cũng ngay năm này ([[1778]]), Đỗ Thanh Nhơn cùng [[Lê Văn Quân]] giết Tư Khấu Oai ở [[sông Bến Nghé]], rồi cùng Hồ Văn Lân đi [[Chân Lạp]]. Ở đây, ông giết Nặc Ong Vinh, tôn con là Nặc Ong Ẩn lên ngôi [[Chân Lạp]], để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ, còn ông thì kéo quân về lại [[Gia Định]].
 
[[Mùa xuân]] nămNăm [[CanhTân Sửu]], ([[17801781]]), Đỗmùa Thanh Nhơn được chúa Nguyễn Phúc Ánh phong làm Ngoại hữu phụ chính Thượng tướng quânxuân, tước Quận công. Đúng một năm sau ([[tháng Giêng]] năm [[Tân Sửu]]3, [[1781]])<ref>Chép theo ''Quốc triều chính biên toát yếu'', tr. 29. ''Từ điển nhân vật lịch Việt Nam'' (bản in 1992, tr. 201) ghi tướng Nhơn bị giết chết ngày 23 [[tháng 3]] năm [[Tân Sửu]] (tức [[16 tháng 4]] năm [[1781]]).</ref>, ThanhNguyễn NhơnPhúc đãÁnh bịtheo Nguyễnkế Phúccủa ÁnhChưởng cơ Tống Phước Thiêm, giả bệnh gọi Đỗ Thanh Nhơn đến chầu rồi ngầm sai võ sĩ giết chết. Nguyên do Nguyễn Ánh thấy Đỗ Thanh Nhơn lấn lướt uy quyền, sợ ngày sau sẽ bị cướp ngôi.
 
Hai tướng tâm phúc của Thanh Nhơn là Võ Nhàn và Đỗ Bảng, sau khi an táng chủ tướng xong,<ref>Trước năm [[1975]], tác giả Huỳnh Minh có tìm đến thăm mộ Đỗ Thanh Nhơn, và ông đã cho biết như sau: "Ngôi mộ Đỗ Thanh Nhân tọa lạc tại [[Phú Lâm]] ([[Sài Gòn]]) trong vuông đất của Hòa Đồng Tôn giáo, phía sau quốc lộ số 4 vô chừng hai trăm thước. Ngôi mộ này nằm trên một gò đất cao ráo, chung quanh có xây tường bằng [[ô dước]], rêu phong cỏ mọc, trước có dựng một mộ bia bằng đá cẩm thạch khắc mấy dòng [[chữ nho]] như sau: ''Uy nghiêm tướng quân, Thần sách quân tả quân thống chế, gia cấp thị trung cần, Đỗ phủ quân thần mộ. Hiếu tử Hồng nhân lập thạch''" (''Định Tường xưa'', NxbNhà xuất bản Thanh Niên, 2001, tr. 66)</ref> chủ tướng xong, cùng rút binh về Ba Giồng, chống Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Ánh cho người đi khuyết dụ, nhưng hai vị tướng này không tin nữa. Về sau nhờ cho người trà trộn vào trong quân, Nguyễn Ánh bắt sống được Võ Nhàn và Đỗ Bảng rồi đem chém. Từ đó, binh Đông Sơn bị phân tán.
 
Hay tin Đỗ Thanh Nhơn bị giết, thủ lĩnh [[phong trào Tây Sơn]] là [[Nguyễn Nhạc]] nói: ''Thanh Nhơn chết rồi, các tướng khác không đáng sợ nữa'', rồi cùng em là [[Nguyễn Huệ]] cử đại binh vào đánh [[Gia Định]]. Quân Tây Sơn vào cửa [[Cần Giờ]], đại thắng trận thủy chiến trên sông Ngã Bảy, khiến [[Nguyễn Phúc Ánh]] phải bỏ thành [[Sài Gòn]] chạy về Ba Giồng rồi lánh sang [[Phú Quốc]]... Đó là hồi [[tháng 3]] năm [[Nhâm Dần]] ([[1782]]).
 
==Luận bàn==
Hàng 54 ⟶ 80:
* Sách "Hoàng Việt Long hưng chí":
:''Tống Phước Thiêm nói: Thanh Nhơn ôm lòng [[Tào Tháo]], Vương Mãng, không thể không trừ hắn đi. Nếu chúa thượng cho dùng mưu, thì chỉ cần sức một vũ khí là đủ.
:''Thế Tổ (chỉ [[Nguyễn Phúc Ánh]]) bèn lấy cớ bị mệt cho gọi Thanh Nhơn vào dinh bàn công việc. Đỗ Thanh Nhơn đến, liền bị vệ sĩ xông ra bắt giết. Lại truyền phân tán quân Đông Sơn làm bốn đội để phòng bọn chúng làm phản .<ref>''Hoàng Việt Long hưng chí'', tr.87.</ref>.''
 
* Sách '"Tự Điển Nhân vật lịch sử Việt Nam":
:''Tính ông cương trực, khí khái nên bị ganh ghét. Nhân vụ ông giết tri huyện ÐặngĐặng Hữu Tâm, chưởng cơ Huỳnh Thiên Lộc <ref>Trong ''Hoàng Việt hưng long chí'' ghi là Thiêm Lộc, và rất có thể Thiêm Lộc tức [[Tống Phúc Thiêm]] (NXBNhà xuất bản Văn học, 1993, tr.87). Huỳnh Minh trong ''Vĩnh Long xưa'' (NxbNhà xuất bản Thanh Niên, 2002, tr. 71) và ''Từ điển nhân vật lịch sử" (tr. 486) đều cho rằng Tống Phúc Thiêm và Huỳnh Thiêm Lộc là hai người khác nhau.</ref> gièm với [[Nguyễn Phúc Ánh]] rằng ông lộng quyền sau này sẽ khó trị.''
:''Thuộc hạ ông là Võ Nhàn và ÐỗĐỗ Bảng chôn cất ông xong, rút quân Đông Sơn về đất cũ Ba Giồng, không phục Nguyễn Ánh nữa, bắt được Huỳnh Thiên Lộc giết đi để trả thù cho chủ tướng''<ref>''Từ điển nhân vật lịch sử'', tr.201.</ref>
 
* Sách "[[Việt sử tân biên]]":
:''Trong khi Đỗ Thanh Nhơn lập nhiều công lớn, thì chúa Nguyễn Ánh đã nghe lời dèm pha đem giết đi...Rồi sử sách (Gia Định thông giám) của triều Nguyễn đã cố bào chữa cho họ Nguyễn về cái chết này: họ bảo Đỗ Thanh Nhơn đã quá cậy công, đã có ý thông đồng với Tây Sơn để làm phản, không tuân theo nghi lễ của triều đình, tự chuyên mọi việc v.v...Sử của người [[Châu Âu|Âu Châu]] cho rằng cái tội của họ Đỗ chỉ là do làm được nhiều công lớn, uy thế lừng lẫy hầu làm lu mờ cả địa vị ông chúa trẻ tuổi (lúc này Nguyễn Ánh mới 18 tuổi). Trước vụ này [[Giám mục]] [[Bá Đa Lộc]] đã hết lời can ngăn chúa Nguyễn mà không xong...''<ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việt sử tân biên'' (Quyển 4, tr. 160).</ref>
[[Nguyễn Liên Phong]], tác giả ''Nam Kỳ Phong Tục Nhân Vậtvật Diễn Ca'' ([[1909]]), có thơ vịnh về Đỗ Thanh Nhơn:
 
:Cờ nghĩa Đông Sơn nổi tợ phao.
Hàng 75 ⟶ 101:
 
== Đường phố ==
[[ThànhSài phố Hồ Chí Minh]]Gòn trước năm [[1985]] có tới 2hai con đường mang tên Đỗ Thanh Nhơn. Đường Đỗ Thanh Nhơn của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Đoàn Văn Bơ ở [[Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh|quận 4]]; còn đường Đỗ Thanh Nhơn của tỉnh Gia Định cũ nay là đường [[Trần Văn Kỷ]] ở quận [[Bình Thạnh]]. Điều đặc biệt là cả hai con đường đều bị đổi tên cùng ngày [[4 tháng 4]] năm [[1985]].
 
== Xem thêm==
Hàng 87 ⟶ 113:
* [[Ngô Giáp Đậu]], ''Hoàng Việt Long hưng chí''. Nhà xuất bản Văn học, 1993.
* [[Phạm Văn Sơn]], ''[[Việt sử tân biên]]'' (Quyển 3 và 4), [[Sài Gòn]], 1959 và 1961.
* Nguyễn Khắc Thuần, ''Việt sử giai thoại'' (Tập 8), NXBNhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr 75-78.
* Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
*[[Đại Nam thực lục]]. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học [[Quốc sử quán (nhà Nguyễn)|Quốc sử quán triều Nguyễn]], Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà xuất bản Giáo Dục]] xuất bản năm 2007.
*[[Trần Trọng Kim]] (1919), [[s:Việt Nam sử lược/Quyển II/Tự chủ thời đại/Chương VIII|Việt Nam sử lược]].
 
== Chú thích==
{{Tham khảo}}
Hàng 95 ⟶ 124:
{{Thời gian sống|Mất=1781}}
 
[[Thể loại:TướngMất chúanăm Nguyễn1781]]
[[Thể loại:Người Thừa Thiên-Huế]]
[[Thể loại:Quan chúa Nguyễn]]
[[Thể loại:Người Việt Nam]]
[[Thể loại:Lịch sử quân sự Việt Nam]]
[[Thể loại:Mất 1781]]
[[Thể loại:Năm sinh không rõ]]
[[Thể loại:Người Thừa Thiên- Huế]]
[[Thể loại:Võ tướng chúa Nguyễn]]
[[Thể loại:Quan lại chúa Nguyễn]]
[[Thể loại:NgườiLịch sử quân sự Việt Nam]]